Lưu trữ danh mục: tin tức

Trà đá & xe ôm

– FB Phi Long Nguyễn vừa kể lại một chuyện có thật (ở xóm Bầu) toàn văn như sau:

“Thằng Tí, học lớp 4 trường làng, người đã nhỏ con lại ốm yếu xanh xao. Cha mẹ nó tuy nghèo thật, nhưng không đến nỗi bỏ bê con cái, cũng ráng chăm sóc cho nó hết mức. Ăn uống không đến nỗi tệ, nhưng thằng bé cứ ngày một gầy rộc đi, thấy bắt thảm. 

Vì đặc thù công việc, mỗi sáng mẹ nó cho hai ngàn đi học sớm mua đồ ăn. Riêng hôm nay, mẹ nó không đi làm, nên nấu cho nó một bữa sáng thật ngon. Nhưng kìa, sao nó ăn mà mắt cứ nhìn ngó đâu đâu vậy. “Không ngon hả con?”, mẹ nó hỏi. “Dạ không”, nó trả lời mà mẹ nó không biết phải hiểu thế nào, là không ngon hay không phải không ngon. Thôi kệ, ăn nhanh rồi đi học kẻo trễ.

Ăn xong, nó đi học. Mẹ nó dọn rửa xong là tất tả đạp xe đi chợ. Đến ngã ba gần trường học, nhác thấy một thằng bé đang núp trong bụi cây, thì ra là thằng Tí. “Tại sao? Giờ này vô lớp rồi mà mày còn đứng đây?” Mẹ nó giận tím mặt. Nó ấp úng: “Con…, con…” rồi không nói được gì nữa, mặt mày xanh lét. Bẻ cành cây bên đường, mẹ nó trót lia lịa. Nó khóc như mưa nhưng nhất quyết không chịu vào trường.

Cảm thấy lạ, mẹ nó chở nó về nhà rồi ôm nó dỗ dành: “Thôi nào, nín đi mẹ thương, mẹ thương! Có chuyện gì nói mẹ nghe, mẹ không đánh con nữa đâu, mẹ hứa! Không thì mẹ méc ba à, ba mày sẽ đánh chết đấy! Nói đi con!” Nó vừa khóc vừa kể:

– Hôm nay không có hai ngàn nộp, bọn lớp 5 thằng Tuất thằng Hợi xóm Bầu nó đánh con, đau lắm mẹ ơi! Hu hu, con không đi học nữa đâu.

– Hả? Sao lại có chuyện đó được? Mẹ nó bàng hoàng. Thì ra, lâu nay, thằng Tí nhịn ăn sáng để cống nộp cho lũ khốn đó ư. Hèn gì…

– Không phải một mình con đâu mẹ!Mấy thằng xóm mình đều phải nộp tiền cho nó hết.

– Thế tại sao các con không thưa thầy? Không nói cho ba mẹ biết?

– Nó bảo, nếu nói cho ai biết thì lần sau sẽ nhừ tử với nó. Bọn nó dữ lắm, con sợ lắm mẹ ơi!

Mẹ nó ngồi phệt xuống đất. Ôi trời ơi! Mới có mấy tuổi đầu mà đã biết ăn cướp rồi ư? (ghi lại từ một chuyện có thật)”
Tôi không rõ xóm Bầu ở đâu nhưng biết rất nhiều chuyện trấn lột (khác) vẫn xẩy ra đều đều, ở khắp mọi nơi, trên quê hương xứ sở của mình. BBC, hôm 30 tháng 10 năm 2020, có một bản tin ngăn ngắn liên quan đến việc cứu trợ nạn lụt: “Theo thông tin ban đầu, tại thôn Ngoạ Cương, xã Cảnh Hóa, Quảng Trạch, Quảng Bình có 69 hộ nhận tổng cộng 414 triệu đồng. Sau đó, ban cán sự thôn này đã thu lại toàn bộ gây bức xúc dư luận.”
Không ít người đặt câu hỏi: Sao lại nỡ “ăn” tiền cứu trợ của dân?
Theo tôi, đây là một câu hỏi rất… vô duyên và lãng xẹt. Chớ không “ăn cứu trợ” của dân quê thì cỡ cán bộ ở thôn biết ăn cái gì khác, và ăn của ai được?
Tương tự: sau vụ chuyện một em học sinh ở An Giang (“không tham gia học phụ đạo đủ 5 môn học có thu tiền theo quy định của trường”) bị áp lực của thầy cô đến độ phải tự tử, cũng có người lớn tiếng: “Đốn mạt đến thế sao?” 
Trời! nói gì mà “nặng lời” dữ vậy? 
Có chi “đốn mạt” đâu? Giáo chức cũng phải “ăn” chớ bộ? Cạp bảng đen hay nuốt phấn trắng mà sống được sao? Coi: niên học nào mà không có mấy chuyện lùm xùm quanh việc thu phí đầu năm (kể cả “tiền ghế ngồi”) và “tùy tiện thu tiền phụ đạo!”
Tiền nhân đã dặn dò rất kỹ: Ăn trông nồi ngồi trông hướng. Dù chủ trương “vô gia đình” nhưng riêng về khoản ăn uống thì quí vị cán bộ cộng sản luôn theo đúng sự chỉ dạy của ông bà, tiên tổ. Họ “trông nồi” rất đàng hoàng và vô cùng cẩn thận! 
Báo Đất Việt cho hay: “Formosa đang được hưởng ưu đãi lớn nhất, như được hưởng thuế thu nhập doanh nghiệp 10% (doanh nghiệp trong nước là 22%), miễn thuế thu nhập trong bốn năm và giảm 50% số thuế phải nộp trong 9 năm tiếp theo; được miễn thuế nhập khẩu máy móc, thiết bị; miễn thuế tài nguyên với hoạt động hút cát san nền…” Tổng cộng, theo chiết tính của chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan: “Hơn 10.000 tỷ đồng nếu tính vào thời giá cuối năm 2014, đầu năm 2015 thì nó tương đương với 500 triệu USD.”
Tập đoàn tư nhân lớn nhất Việt Nam (VinGroup chuyên “chế tạo” ô tô) cũng thế. Cũng được hưởng ưu đãi lớn về thuế, theo như tin loan của BBC: “Mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp 10% áp dụng trong 15 năm, kể từ khi dự án bắt đầu hoạt động sản xuất kinh doanh. Được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong 4 năm, kể từ khi có thu nhập chịu thuế và giảm 50% số thuế phải nộp cho 9 năm tiếp theo.”
Những doanh nghiệp kinh doanh đất đai, tất nhiên, lại còn được ưu đãi nhiều hơn thế nữa. Lý do, được FB Thuan Van Bui giải thích hết sức là ngắn gọn và dung dị: “Bởi các công ty BĐS thường là sân sau, cấu kết với quan chức, băng nhóm trong đảng để cướp đất, thâu tóm đất vàng, đất công giá rẻ mạt rồi kiếm lời từ đó.”
Đó là “những đứa con cưng của chế độ” hiện hành, theo cách nói của FB Đỗ Ngà: “Chính quyền yếu kém để xảy ra tham nhũng trăm tỷ ngàn tỷ tràn lan, rồi lại nuôi những đứa con cưng như EVN, Vietnam Airlines, Vinashine, Vinalines vv… để cho chúng ăn tàn phá hại rồi cuối cùng tăng thuế, thêm phí đổ hết những thứ đó lên đầu dân.”
Sự “yếu kém” triền miên này đã khiến Nhà Nước Việt Nam biến thành một thứ gà què ăn quẩn cối xay. Và nhìn quanh cái cối xay của đất nước hiện nay thì không phát hiện được ai khác, ngoài đám dân đen buôn thúng bán mẹt hay bọn cùng đinh lao động chân tay. 
Đại biểu Nguyễn Mạnh Tiến, Phó Chủ Nhiệm Uỷ Ban Đối Ngoại cho hay: “Người bán trà đá tại Việt Nam là có tỷ suất lợi nhuận cao nhất trên thế giới, 5.000-7.000% nhưng lại không đóng đồng nào cho ngân sách.”
Cùng với mấy con mẹ bán trà đá, mấy đứa nhỏ bán vé số, còn có một lũ xe ôm cũng vừa được chính phủ chiếu cố. FB Thuan Van Bui nhận xét: “Chuyện đảng- nhà nước đói quá cạo lông háng anh em chạy Grab qua việc tăng thuế. Truyền thông, báo chí của đảng lại đang đổ lỗi cho công ty Grab. Thế mới thấy, dân trí thấp là một ưu tiên của các chế độ độc tài để dễ cai trị.”
Sao lại đổ cho “dân trí thấp” trong vụ này cà? Câu trả lời xin dành cho blogger Nguyễn Thùy Dương:
“Grab chỉ là công ty môi giới cho các “Giám đốc doanh nghiệp tự thân”(tài xế chạy Grab) với khách hàng thông qua phần mềm ứng dụng GrabBike. 20% mà Grab thu trước nay là phí môi giới, khi Nghị định 126 chưa có hiệu lực, tài xế chạy Grab đóng 3% cho thuế Gía Trị Gia Tăng và 1,5% cho thuế Thu Nhập Cá Nhân. Vị chi mỗi “cuốc” xe tài xế mất 24,5% cho phí môi giới và thuế. Khi Nghị định 126 có hiệu lực, Grab vẫn thu 20% phí môi giới, cộng thêm 10% thuế Gía Trị Gia Tăng và 1,5% thuế Thu Nhập Cá Nhân.

Mội tài xế chạy Grab được xem như một giám đốc doanh nghiệp riêng lẻ. Và mức thuế họ chịu bằng với mức thuế của một doanh nghiệp vận tải. Đúng là một niềm vui hiếm thấy, khi chỉ cần một bản xác minh lý lịch của địa phương, một chiếc xe máy, một cái điện thoại, một bộ đồ, 2 cái nón bảo hiểm, 2 triệu đồng ký quỹ, từ người tốt nghiệp Tiểu học cho đến Cử nhân Đại học đều có thể cùng nhau làm Giám đốc doanh nghiệp.

Các giám đốc doanh nghiệp này không được giảm trừ gia cảnh, không được trừ các loại thuế phí hao hụt, không có chế độ bảo hiểm, không có chế độ đãi ngộ. Ngày đêm, họ cần mẫn nuôi “Má mì” Grab và đóng góp vào ngân sách Quốc gia.” 
Xem như thế thì trẻ con trấn lột bạn học (nhỏ con hơn) cùng lớp, hay cùng trường là chuyện tất nhiên. Nhà nước hiện nay xây dựng trên căn bản cá lớn nuốt cá bé mà. Tụi nhỏ đã “sống và chiến đấu” trong một xã hội như thế nên tự rèn luyện kỹ năng trấn lột ngay từ thuở ấu thời (để sinh tồn) kể thì cũng tốt thôi! 


Ngày đầu năm quê xa nhớ quê nhà

– Vậy là cuối cùng cũng tạm gác cho qua đi một năm tồi tệ kinh hoàng nhất của nước Mỹ, để thế giới nghênh đón năm mới thật mới của 2021.
Hy vọng càng lúc thế giới càng biết chuẩn bị kỹ càng hơn, trước những cảnh báo mới đây nhất của WHO là dịch bệnh sẽ còn tiếp diễn kinh khủng hơn dài dài.
Giữa những cách ly hốt dưng của cả lòng người, chúng ta sẽ khó lòng gột rửa được hiểm hoạ đại dịch, và cuộc bầu cử gây chấn động tàn tích lịch sử vừa qua ở nước Mỹ.
Thôi thì đầu năm đầu tháng, xin được gởi đến quý bạn khắp nơi một tâm tình, một rung động một xúc động có thật, một nhạc phẩm trữ tình của nhạc sĩ tài ba Vĩnh Điện. Tác giả của ‘Vết Thương Sỏi Đá’ đã một thời và cho đến bây giờ vẫn làm say mê chúng ta.
Đặc biệt lần này qua sự diễn tả đầy hồn khí của Diễm Liên, được ví von như một giọng- hát- mãi – mãi- xuân- thì.
Chúng ta có Mười Năm Tình Cũ, rồi Hai Mươi Năm…, và giờ không thể không say đắm với nhạc phẩm mang dấu ấn của thời đại chúng ta đang sống: BA MƯƠI NĂM VỀ LẠI của cây tổ, vua âm thanh Vĩnh Điện, và tài phổ thơ ngang ngửa Phạm Duy, nhưng nhanh không ai bằng hơn sấm chớp.
Vâng, sao nghe nhức nhối như vừa xoáy mạnh vào lòng người, ở đây chỉ ghi bất ngờ vài câu:
Ba mươi năm về lại
Tóc bạc nợ tóc xanh
Gươm kiếm xưa mài mãi
Không trả nổi oan khiên
… Ba mươi năm về lại 
Hát đợi ngày nắng lên 
Tôi về đây tìm lại
Trái tim VN ơi!

Nhìn lại năm 2020, liệu chúng ta còn ươm niềm hy vọng đồng bào ‘hát đợi ngày nắng lên’ chăng(?)


Một “danh ngôn” cho thấy tư duy xổi của Hồ Chí Minh

– Ở một ngôi trường tiểu học giữa thành phố tôi ở, có trương câu nói “của” Minh “râu”: “Vì lợi ích mười năm: trồng cây; vì lợi ích trăm năm: trồng người.” Tôi phát hiện tư tưởng này sai.

Trước tiên xét nguồn gốc câu này. Quản Trọng (725-645 TCN), tể tướng nước Tề, vĩ đại nhất đương thời, thời Xuân Thu ở TQ nói: “Kế một năm không gì bằng trồng lúa. Kế mười năm không gì bằng trồng cây. Kế trăm năm không gì bằng trồng người.” Liếc mắt, ta biết ngay Minh “râu” lấy câu này của Quản Trọng. Nhưng không quan trọng. Các nền văn minh giao thoa nhau, học nhau, lấy tinh hoa của nước ngoài làm của mình là bình thường. Minh “râu” tự nhận lấy của Tàu cũng chẳng sao cả, không ai thắc mắc, nhưng cần đàng hoàng, nói ta lấy ở đâu, của ai, áp dụng vào việc nước ta có lợi ra sao. Trước 1930, triết học Việt Nam chủ yếu chỉ có Tam Giáo Nho, Phật, Lão mà 3 nguồn này đều từ nước ngoài: đạo Phật ở Ấn Độ, Nho và Lão từ TQ. Ông cha ta lấy cái hay của nước ngoài làm của mình. Vậy Minh “râu” cóp của TQ là không có gì xấu, chỉ xấu khi Minh “râu” nói tự mình tạo ra tư tưởng này nếu có.
Trồng cây thì không tốt, không được là một kế hay trong 10 năm đâu. Cả Quản Trọng vĩ đại lẫn Minh “râu” đều sai. VN ta có thời làm bá chủ thế giới, điều tiết được giá cả mua, bán của hạt tiêu phạm vi toàn cầu. Khi giá tiêu hạ, bà con bảo nhau găm hàng lại không bán, đợi giá cao mới bán ra. Ấn Độ thấy vậy, thích quá, muốn làm VN thứ nhì, trồng nhiều tiêu. Thế là cung vượt cầu, kéo nhau giá tiêu rớt thảm hại. Hiện nay, việc trồng tiêu bị bỏ dở ở VN. Giá tiêu là 58.000 đồng/kg, nông dân chưa có lời.
Israel có nền nông nghiệp phát triển, dân ăn uống sung sướng, lại xuất khẩu tốt nữa, càng giàu thì quốc gia càng mạnh; Israel càng mạnh thì Palestine và các nước Ả-rập càng ghét, tức đối với khối Ả-rập, trồng cây kế 10 năm là hại. Nhìn đây ta có một kết luận quan trọng: Kế 10 năm là trồng cây có tính đa hướng. VN, Ấn sạt nghiệp, bán hạt tiêu giá rẻ thì thế giới hưởng lợi. Giá tiêu lên cao thì các nước khác trên thế giới bất lợi. Nông nghiệp Israel tốt thì Israel lợi mà Ả-rập thấy hại vì Ả-rập thù Israel.
Cái gì cũng có tính đa hướng hết cả, không có hướng tốt, hay, phải, đúng thuần túy. Việc trồng người theo kế 100 năm cũng vậy, không phải lúc nào cũng cho ta những con người đức độ, tài năng mà là những con người đó gây ra lợi, hại; tốt, xấu; chân,ngụy; phải, trái bất thường. Tôi xin kể những chuyện có thật và trong lịch sử sau, quý độc giả kính mến thấy ngay.
Trong một cơ quan, chọn nhân viên nào làm phó phòng? Chọn nhân viên tài, đức? Sai bét! Ở cơ quan đó, bọn nhân viên thấy ai có tài, đức là liền nói xấu, dèm pha, chọc ngoáy đủ kiểu cho người tài giỏi không được lên ghế mà bọn nịnh, bọn xấu, bọn bất tài nhưng nhiều thủ đoạn được lên. Hoặc nạn con ông cháu cha, nạn hối lộ đưa những người bất xứng lên. Phó thủ tướng Vũ Đức Đam đang lọt vào thế này. Ông không bè phái, không tham ô, tham nhũng, tiến thân bằng thực lực, tâm, tài, tầm nhưng đang bị chặn lại, không lọt được vào bộ vua tập thể là bộ chính trị. Đam là người CS mà rồi ta cũng gọi họ là ngớ ngẩn, do sai từ gốc, từ học thuyết Mác-Lê, sai so với bài này. Như vậy ta thấy cái ghế trong một cơ quan rất hỗn độn, có khi xứng, có khi bất xứng.
Khổng Tử (551-479 TCN), đương thời đang sống nhân dân đã coi là thánh. Ông THẤT BẠI hoài hoài như theo chủ nghĩa thất bại vậy, không làm chính trị được dù ông thiên tài trị quốc, về già chỉ làm văn hóa, dạy học. Hai cố sự dưới đây trích từ Sử Ký của Tư Mã Thiên.
“Lỗ Định Công cho Khổng Tử làm quan cai trị thành Trung Đô. Được một năm, cả bốn phương đều noi theo xem là mẫu mực. Từ chức quan cai trị thành Trung Đô, Khổng Tử được thăng làm tư không (coi việc xây dựng), rồi được làm đại tư khấu (coi về pháp luật).
Mùa xuân năm thứ mười đời Lỗ Định Công (500), Lỗ giảng hòa với Tề. Mùa hạ, quan đại phu nước Tề là Lê Sừ nói với Tề Cảnh Công:
Nước Lỗ dùng Khổng Khâu thế nào cũng nguy hại cho nước Tề.
……
Khổng Tử làm tướng quốc (như thủ tướng ngày nay), giết quan đại phu nước Lỗ làm rối loạn chính sự là Thiếu Chính Mão. Sau khi tham dự chính quyền trong nước ba tháng, những người bán cừu, bán lợn không dám bán thách, con trai con gái ở trên đường đi theo hai phía khác nhau, trên đường không nhặt của rơi. Những người khách ở bốn phương đến thành ấp không cần phải nhờ đến các quan, bởi vì người ta đều xem họ như người ở trong nhà.
Người Tề nghe vậy sợ hãi nói:
Khổng Tử cầm đầu chính sự thì thế nào cũng làm bá chủ chư hầu. Nếu Lỗ làm bá thì đất nước ta ở gần sẽ đầu tiên bị thôn tính. Tại sao ta không đem đất nộp cho Lỗ?
Lê Sừ nói:
Trước tiên hãy tìm cách cản trở, nếu chưa được thì nộp đất cũng chưa muộn.
Vua Tề bèn sai chọn tám mươi người con gái đẹp ở trong nước Tề, đều cho mặc quần áo đẹp, tập múa điệu “khang nhạc” và ba mươi cỗ ngựa, mỗi cỗ bốn con rất đẹp. Vua Tề sai bày bọn con gái và những con ngựa đẹp ở ngoài cửa cao phía nam kinh đô nước Lỗ. Quý Hoàn Tử, đại phu quyền thần, ăn mặc thường dân đến xem hai ba lần, toan thu nhận và nói với vua Lỗ đi một vòng để đến xem. Vua Lỗ đến chơi xem đến trọn ngày. Vua Lỗ bỏ việc chính sự. Tử Lộ nói:
Thầy nên đi thôi.
Khổng Tử nói:
Vua Lỗ sắp đi làm lễ tế giao, nếu nhà vua đem thịt tế đến cho các quan đại phu thì ta còn có thể ở lại.
Cuối cùng Quý Hoàn Tử nhận nữ nhạc của Tề, bẩm với Lỗ hầu. Lỗ hầu say mê ba ngày không nghe việc chính sự. Khi làm lễ tế giao cũng không đem thịt tới cho các quan đại phu. Khổng Tử bèn ra đi. “Vì tâm, tài, tầm của Khổng Tử vĩ đại mà ông bị lạnh nhạt, bị thất sủng ở Sở:
“Chiêu Vương nước Sở định phong cho Khổng Tử miếng đất trong sổ sách có 700 lý (1 lý là nhóm gia đình 25 nhà). Quan lệnh doãn (như thủ tướng ngày nay) nước Sở là Tử Tây hỏi:
Trong số các sứ giả nhà vua phái đến các nước chư hầu có ai bằng Tử Cống không?
Không.
Trong số những người giúp đỡ nhà vua có ai bằng Nhan Hồi không?
Không.
Trong số các tướng của nhà vua, có ai bằng Tử Lộ không?
Không.
Trong số các quan của nhà vua, có ai bằng Tể Dư không?
Không.
Không những thế, tổ tiên nước Sở cũng chỉ được nhà Chu phong với cái tước hiệu là “tử” và năm mươi dặm đất (Ý nói Sở trước kia chỉ nhỏ 50 dặm và chỉ có tước “tử”, nay lớn mạnh). Nay Khổng Khâu theo phép tắc của Tam Vương, làm sáng cả cơ nghiệp của Chu Công, Thiệu Công. Nếu dùng ông ta thì nước Sở làm thế nào mà được đời đời đường hoàng có đất vuông ngàn dặm? Văn Vương ở đất Phong, Vũ Vương ở đất Cảo đều chỉ là những ông vua có trăm dặm đất, thế mà rốt cuộc lại làm vương thiên hạ. Nay Khổng Khâu có được miếng đất làm cơ sở, lại có bọn học trò giỏi giúp đỡ thì đó không phải là phúc của nước Sở.” 
Chiêu Vương bèn thôi.
Tôi kể tiếp một vị thánh nữa là Mahatma Gandhi (1869-1948), anh hùng dân tộc Ấn Độ, đấu tranh bất bạo động chống thực dân Anh. Ông hay ở chỗ đuổi thực dân Anh đi không tốn một viên đạn, cơ sở hạ tầng Ấn được giữ nguyên. Hạng như HCM tốn núi xương sông máu mới giành được độc lập, phải thua kém vị thánh thật này. Nhà vật lý vĩ đại nhất thế kỷ 20, Albert Einstein nói về sau, có nhiều người sẽ không tin có một con người như Gandhi từng bước trên địa cầu này. Einstein rất khâm phục Gandhi. Gandhi kêu gọi và thực hành người Anh, người Ấn bình đẳng. Thực dân Anh ở Ấn không sai khiến được dân Ấn do họ theo Gandhi, bất hợp tác với Anh, nhưng không đánh lại người Anh, Anh mà đàn áp thì báo giới Anh, Ấn la làng là đánh người tay không vũ khí. Anh ở lại Ấn vô ích nên trả độc lập cho người Ấn. Khi độc lập rồi thì Ấn Độ bị chia ba là Bangladesh, Pakistan và Ấn Độ vì người theo Hồi Giáo muốn ở quốc gia riêng, không ở chung với người Ấn Độ giáo. Thấy chia rẽ, Gandhi đau lòng. Ông không thể chống đồng bào Hồi giáo, nên hòa hoãn để níu kéo sự đoàn kết. Một số người Ấn Độ giáo có mối thù với Hồi Giáo, cho ông là thiên vị đạo Hồi, và nhóm Ấn Độ giáo cực đoan này ám sát ông.
Ta thấy hai vị thánh, thánh Khổng thì tư tưởng được dùng đến 2000 năm. Ai mà nghĩ ra được cái tồn tại, phát triển 2 thiên niên kỷ như thế. Hạng thánh, vượt xa khỏi cái chuẩn “100 năm trồng người” mà còn bị xa lánh, bị giết như thế thì “danh ngôn” của Minh “râu” là sai.
Đời Hán có thừa tướng (như thủ tướng nay) Tiêu Hà (257-193 TCN) giỏi giang, đức độ, Hán Cao Tổ Lưu Bang sợ ông nói dân và quân nghe, dễ lật đổ ngai vàng. Ai mà chả thích làm vua! Thấy Lưu Bang hay dò xét mình, Tiêu Hà phải cướp đất của dân, phá uy tín mình đi, Lưu Bang mới tin ông, cho tiếp tục làm thừa tướng. Ăn cướp của dân là minh triết, là thông minh, còn một mực đạo đức là ký vào bản án tử hình!
Trồng người 100 năm không chỉ có thất bại như các cố sự trên. Có thành công vĩ đại nữa, như Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi. Song, tôi thêm, cuối đời nhà Lý, nhà Lý bị Trần Thủ Độ tuyệt diệt. Đến lượt mình, cuối đời Trần, nhà Trần bị Hồ Quý Ly tuyệt diệt. Cuối đời nhà Lê, các vua Lê bị các chúa Trịnh cho sống thì được sống, bắt chết là phải chết như một cục đất sét muốn nặn sao thì nặn vậy. Không rõ khi thấy hậu duệ mình bị tàn hại vậy, các vua khai quốc nhà Lý, Trần, Lê có thấy chán ngán cho cái vinh quang, cái ngai vàng mình tạo nên một cách chính đáng hay không?
Thế giới của chúng ta đa đoan, phức tạp, nhiều mối, tức đa hướng, không thuần hướng tốt, hướng có lợi, hướng hay, hướng phúc. Coi các video clip ở website youtube.com, ta thấy vũ trụ rất đa hướng, không biết vũ trụ đi theo hướng tốt, có lợi là hướng nào. Trái đất thì bất cứ đâu, bất cứ khi nào cũng có thể bị động đất. Khi đó, nhà ta sụp, ta bị tường đè què chân, vợ con ta chết. Sống ở cái đa đoan phức tạp như thế mà nói thế giới càng ngày càng tiến bộ, càng ngày càng đi lên, càng tốt lên là thế nào nhỉ?
2/3 thời gian trong 1000 năm qua, Trung quốc bị dị tộc cai trị. Dân tộc Hán, đông nhất, sao không chính danh mà cầm quyền đi, để đất nước bị dị tộc xâm lăng và cai trị?! Nhìn vào đó thấy TQ đa hướng, không có hướng tốt, hướng có lợi, hướng phát triển thuần túy.
Chúng tôi đã trình bày rồi, gốc của thế giới, bản thể của thế giới có tính đa hướng, chứ không có hướng tốt, hạnh phúc, có tài, hay, giỏi, … thuần túy nên trồng người 100 năm nó đa đoan, nhiễu sự, rối rắm, chứ không phải cứ đào tạo ra người tài là được hưởng phúc đâu.
Cuối cùng thì tôi thách CS các nước Cuba, Lào, TQ, Bắc Hàn, VN chỉ ra được tôi sai, còn HCM đúng. Nói rộng ra thì Mác, Lê, Mao, Hồ, Tập, Trọng “lú”, tất cả đều sai, là không chính danh, không chính danh là ngụy. Mấy ông GSTS triết học ở Hội đồng lý luận Trung ương, Học viện chính trị HCM, Hội triết học VN tranh luận với tôi xem sao?!!! Tôi năn nỉ các ông phê bình, phản biện!! Nếu không viết được thì đông đảo độc giả ở danlambaovn sẽ biết các ông đuối lý, cái lý đúng thuộc về nhân dân, tức thuộc Đắng tôi, tôi là một phần nhỏ của nhân dân VN, không thuộc về đám CS VN lãnh đạo mà tên nào tên nấy giàu sụ, toàn là tư bản đỏ la liếm ăn của dân không từ cái gì, từ đó ích kỷ, giữ độc quyền lãnh đạo mà cao nhất là mười mấy tên trong bộ chính trị.
Thanh Hóa 4-1-2021


Tù và tội – Bài 1: Chính quyền nhân dân

I. Tù tội
Nhiều người hay nói đến “tù tội” như là một từ ghép có quan hệ logic, nhân quả là “có tội phải vào tù” (thường hiểu theo trào lưu 4T là “tình – tiền – tù – tội”). Tuy nhiên, không phải ai “vào tù” cũng “có tội”, chính vì vậy mà có “Luật Trách nhiệm bồi thường của nhà nước”[*]. Và thực tế cũng không ít người không có tội mà phải vào tù với án rất nặng như “Huỳnh Văn Nén”, “Nguyễn Thanh Chấn”[*], …
Theo dõi “vụ Đồng Tâm”[*], chắc là cho đến lúc chết ông Lê Đình Kình[1.1] không biết chết vì tội gì ?. Bởi ông vẫn cố giữ cho mình là một đảng viên trung kiên, một cán bộ hưu mẫu mực, một lòng tin tưởng tuyệt đối vào Đảng và Chính phủ trong công cuộc chống tham nhũng.
Không riêng Việt Nam, lịch sử tư pháp thế giới không phải cứ có tội là vào tù, và những người ở tù chưa chắc đã có tội. Vì vậy mà ở Việt Nam, từ ghép “tù tội” còn được hiểu là những người bị “tù đày” là “tội nghiệp, đáng thương”: những người tù đáng tự hào và được xã hội tôn trọng. Lịch sử hiện đại Việt Nam không ít người bị tống vì tù vì: thể hiện lòng yêu nước, chống xâm lược, phản biện chính sách với trách nhiệm của công dân; lên tiếng đòi tự do, công lý, quyền con người, …
Đặc biệt với các tội liên quan đến chính trị, an ninh quốc gia thì những người tù bị quy chụp theo cảm tính của nhà cầm quyền. Cùng một hành vi: người này có tội, người khác thì không sao; địa phương này buộc tội, địa phương khác không quan tâm; thời điểm này có tội, thời điểm khác không sao; .v.v… đến nỗi người bị buộc tội không biết mình bị tội gì, có người vào tù rồi nhưng vẫn không ký nhận tội !
Quay lại thời hiện tại, quá nhiều người bị bắt và kết án tủ vì những tội danh liên quan đến “chính quyền nhân dân”, “tự do dân chủ”, … chúng ta hãy xem họ có tội không, trên nguyên tắc “không thể tác động vào cái không tồn tại”, nguyên tắc này làm cơ sở pháp lý bảo vệ chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam.
II. Chính quyền nhân dân là gì?
Tôi tư vấn cho nhà đầu tư nước ngoài, tìm hiểu quy mô dự án rồi tôi trao đổi với họ các thủ tục phải thực hiện với chính quyền; từ giấy phép đầu tư, quy hoạch, đất đai, xây dựng đến PCCC, ĐTM, giấy phép vận hành…; trong đó thủ tục nào phải làm việc với chính quyền địa phương, thủ tục nào phải làm việc với chính quyền trung ương. 
Nghe xong nhà đầu tư hỏi: có thủ tục nào phải làm việc với chính quyền nhân dân?
Tôi nói với họ: chính quyền nhân dân là một khái niệm, không phải là một thực thể.
Nhà đầu tư hỏi tiếp: vậy tại sao lại có tội danh liên quan đến chính quyền nhân dân?
***
Người đã mang tiền ra nước ngoài đầu tư, tìm hiểu luật pháp sở tại, câu hỏi của họ không phải là ngớ ngẩn. Tôi cố gắng trả lời câu hỏi của nhà đầu tư. 
Câu hỏi đầu tiên đặt ra: “chính quyền nhân dân là gì?”
 
1. Hợp hiến và hợp pháp?
Tìm hiểu Hiến pháp năm 2013, về các tên gọi tổ chức gắn với từ “NHÂN DÂN” được định danh, định nghĩa trong hệ thống tổ chức nhà nước: Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân (Chương VIII); Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân (Chương IX); Quân đội nhân dân, Công an nhân dân (Chương IV). Gắn với từ “CHÍNH QUYỀN”, có “Chính quyền địa phương” (Chương IX).
Ngoài ra còn có các Luật làm rõ các khái niệm, tên gọi các tổ chức ghi trong Hiến pháp: Luật Tổ chức chính quyền địa phương, Luật Về sĩ quan quân đội nhân dân Việt Nam, Luật Về sĩ quan quân đội nhân dân Việt Nam, Luật Tổ chức tòa án nhân dân, Luật Tổ chức viện kiểm sát nhân dân, .v.v…
Tra cứu các từ điển online Tiếng Việt: có định nghĩa “chính quyền”, đều không có định nghĩa “chính quyền nhân dân” (hình 1.1)
(Hình 1.1. Không có “chính quyền nhân dân” trong từ điển Tiếng Việt)
Như vậy, xem xét dưới nhiều góc độ: Hiến pháp, Luật, Ngôn ngữ thì không tồn tại một tổ chức nào mang tên “chính quyền nhân dân”.
2. Tội danh liên quan “chính quyền nhân dân” 
Tìm hiểu Bộ luật Hình sự năm 2015; sửa đổi, bổ sung năm 2017 có hiệu lực từ ngày 01/01/2018, cụm từ “chính quyền nhân dân” lặp lại 17 lần trong 11 tội danh, gồm: (1) Điều 109. Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân; (2) Điều 112. Tội bạo loạn; (3) Điều 113. Tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân; (4) Điều 114. Tội phá hoại cơ sở vật chất – kỹ thuật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; (5) Điều 115. Tội phá hoại việc thực hiện các chính sách kinh tế – xã hội; (6) Điều 116. Tội phá hoại chính sách đoàn kết; (7) Điều 117. Tội làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; (8) Điều 118. Tội phá rối an ninh; (9) Điều 119. Tội chống phá cơ sở giam giữ; (10) Điều 120. Tội tổ chức, cưỡng ép, xúi giục người khác trốn đi nước ngoài hoặc trốn ở lại nước ngoài nhằm chống chính quyền nhân dân; (11) Điều 121. Tội trốn đi nước ngoài hoặc trốn ở lại nước ngoài nhằm chống chính quyền nhân dân.
Theo Bộ luật hình sự hiện hành, các tội danh có liên quan tới “chính quyền nhân dân” với mức án khá cao; có trường hợp lên đến chung thân, tử hình. 
Tuy nhiên, trong cả hai văn bản luật hình sự lại không thấy điều khoản nào định nghĩa “chính quyền nhân dân” là gì ?. Còn Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 có 35 từ “chính quyền” nhưng không có cụm từ “chính quyền nhân dân”.
III. Đi tìm câu trả lời
Mỗi khi có điều kiện gặp những người am hiểu về luật là tôi nhờ họ giải thích “chính quyền nhân dân là gì ?”, thường thì không ai muốn trả lời. Một số ít người có vẻ am hiểu, nhưng mỗi người giải thích một kiểu, đại loại như: 
– “chính quyền nhân dân là chính quyền do người dân bầu ra”
– “chính quyền nhân dân là chính quyền của dân, do dân, vì dân”
– “chính quyền nhân dân được hiểu là hệ thống các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị xã hội thực hiện quyền lực của nhân dân”. .v.v…
Nói chung, các câu trả lời là cảm tính, hoàn toàn không mang tính khoa học và cơ sở pháp lý. Nếu hỏi sâu vào định nghĩa của họ và vặn lại thì người trả lời bế tắt, ví dụ: “Chính quyền nhân dân” khác với “Chính quyền” như thế nào ?
Với hy vọng cuối cùng, tôi gửi email đến các cơ quan có khả năng giải đáp pháp luật [2.1] để mong có được câu trả lời thỏa đáng, như: Bộ Tư pháp, Hội Luật gia, Văn phòng Quốc hội, … (xem hình 2: Email và hình 3: Nội dung). 
(Hình 1.2. Trích hình email gửi các cơ quan chức năng: “chính quyền nhân dân” là gì ?)
(Hình 1.3. Nội dung email gửi các cơ quan chức năng “chính quyền nhân dân” là gì ?)
Cho đến nay vẫn không có bất kỳ một cơ quan nào trả lời câu hỏi: “chính quyền nhân dân là gì ?”; tôi vẫn tiếp tục tìm hiểu để trả lời cho nhà đầu tư nước ngoài, vẫn chưa xong !
Nói thêm: Theo số liệu thống kê của người viết bài, ít nhất cũng 99% số người đã gặp, không thể hiểu được khái niệm “chính quyền nhân dân là gì ?”. Mục đích của bài viết là làm rõ các khái niệm pháp lý để nhiều người, ít ra những người có trình độ đại học, cao đẳng (ngoài chuyên ngành luật) hiểu được, mang tính phổ thông.
(Còn tiếp…)
[*] Tra Google nội dung trong ngoặc kép (“”)
[2.1] Website có khả năng giải đáp pháp luật
Văn phòng Quốc hội: Email [email protected]


Thấy gì, nghĩ gì về Đại hội 13? Các thủ đoạn công khai tham nhũng quyền lực của Nguyễn Phú Trọng đang đưa Đảng về đâu?

Các thủ đoạn công khai tham nhũng quyền lực của Nguyễn Phú Trọng đang đưa Đảng về đâu? Nguyễn Phú Trọng đã mạo nhận Trung ương đảng để tự định ngày tổ chức Đại hội 13! Nguyễn Phú Trọng đang nhốt Đảng và cả Dân tộc trong lồng tham nhũng quyền lực do chính ông dựng lên! Cách tranh giành quyền lực cực kì bất chính giữa các phe với nhau theo mức độ gia tăng nhanh và tàn khốc từ Đại hội này sang Đại hội khác. Nó đi theo đường vòng trôn ốc đang dẫn tới ngõ cụt!

*
Trong tư cách Tổng bí thư (TBT), Nguyễn Phú Trọng luôn luôn hô hoán công tác nhân sự phải “công khai, minh bạch“, đòi hỏi các đảng viên phải tôn trọng và nghiêm túc thi hành Điều lệ đảng (ĐLĐ). Ông còn nhấn mạnh, “cán bộ lãnh đạo phải làm gương“. Trong tư cách là TBT và Trưởng ban chỉ đạo Trung ương phòng chống tham nhũng ông còn hô hoán phải “nhốt quyền lực vào trong lồng!” Nhưng trong thực tế có thực như vậy không? Nguyễn Phú Trọng có tôn trọng ĐLĐ và các quyết định của Trung ương đảng (TUĐ) không? Hay chính ông từ khi thâu tóm toàn bộ quyền lực một mình chiếm giữ luôn hai ghế cao nhất là TBT và Chủ tịch nước (CTN), nên ông đã từng bước thoán đoạt quyền lực cho riêng mình và đang lợi dụng quyền lực chúa tể để nhốt cả Đảng và cả nước vào cái lồng tham nhũng quyền lực của chính ông dựng lên? Nguyễn Phú Trọng trở thành một biểu tượng của một chính trị gia Cộng sản gương mẫu, hay đang là lãnh tụ CS VN tham nhũng quyền lực nhất từ trước tới nay?

Nói và làm của Nguyễn Phú Trọng: Ngày càng ngang ngược công khai lạm dụng quyền lực
Ngày 23.12.2020 nhiều báo lề đảng đã đưa tin rất vắn tắt là Đại hội (ĐH) 13 sẽ được tổ chức từ ngày 25.1 tới 2.2.2021và nói, đó là “quyết định của HNTU 14″(1) vừa mới họp vài ngày trước từ 14 tới 18.12.20. Nhưng trong thực tế thì hoàn toàn khác. Trong Thông cáo kết thúc của Hội nghị Trung ương (HNTU 14) được báo chí lề đảng công bố chiều 18.12. thì hoàn toàn không có một có một câu hay đoạn nào nói là, HNTU này đã quyết định tổ chức ĐH 13 vào ngày tháng nói trên. Ngay cả trong Diễn văn Bế mạc HNTU 14 dài 26 phút ngày 18.12.20 Nguyễn Phú Trọng cũng tuyệt nhiên không nói HNTU 14 đã có quyết định về thời điểm tổ chức ĐH 13! Nguyễn Phú Trọng và Trung ương đảng (TUĐ) hãy trả lời trước công luận về câu hỏi rất quan trọng: Trong diễn văn bế mạc của Nguyễn Phú Trọng và trong Thông cáo kết thúc HNTU 14 ngày 18.12.2020 có ghi ngày tháng họp ĐH 13 từ 25.1. tới 2.2.2021 không? (2)
Theo nguyên tắc làm việc của ĐCSVN từ trước tới nay, Thông cáo kết thúc của HNTU và các diễn văn khai mạc và bế mạc của TBT trong HNTU là những VĂN KIỆN CHÍNH THỨC và CÔNG KHAI của đảng để thông tin cho đảng viên và nhân dân biết rõ những vấn đề đã đem ra thảo luận và quyết định tại một HNTU. Vì mọi người đều biết, trong chế độ toàn trị độc đảng ở VN hiện nay, mọi quyết định của TUĐ và TBT liên quan tới trực tiếp tới các đảng viên và cuộc sống của trên 95 triệu nhân dân! 
Điều cần lưu ý là, trong một số báo điện tử như Cộng sản, Thanh niên ngày 23.12.20 khi đưa tin về thời gian tổ chức ĐH 13, ngoài việc nói đây là quyết định của HNTU 14, nhưng còn cố tình lồng vào bản tin này một số các vấn đề đã được thảo luận và quyết định tại HNTU 14. Nghĩa là ở đây họ đã dùng thủ đoạn để đánh lận con đen: Đưa một số tin đã được phổ biến rộng rãi trong dư luận vài ngày trước về HNTU 14, nhưng lại gài vào đó một tin hoàn toàn không có thực (tức ngày tổ chức ĐH 13 là từ 25.12.2020 tới 2.2.2021). Ở đây khi làm như thế là họ cố tình định hướng theo dõi của dư luận cả trong đảng và ngoài xã hội, coi như HNTU 14 cũng đã quyết định xong cả thời gian tổ chức ĐH 13.(3)
Đây rõ ràng là một sự dối trá có tính toán của một vài người có trách nhiệm cao nhất trong BCT. Hạ thấp TUĐ, coi TUĐ chỉ là cái bung xung để họ tự do thao túng cho những mục tiêu đen tối phục vụ quyền lực riêng của họ. Vì ai cũng biết, từ sau ngày 18.12.20 kết thúc HNTU 14 tới nay chưa có một HNTU mới nào cả, tức là ngày tổ chức ĐH 13 chưa được TUĐ quyết định, như thông tin chính thức trong Thông cáo kết thúc của HNTU 14, như đã trình bày ở trên. Theo ĐLĐ của ĐCSVN được áp dụng từ ĐH 11 (1.2011), ĐH là cơ quan quyền lực cao nhất của Đảng, bình thường được triệu tập 5 năm một lần. Nhưng thời gian giữa hai ĐH thì TUĐ là cơ quan quyền lực cao nhất của Đảng. TUĐ có toàn quyền quyết định trong mọi vấn đề và mọi đảng viên từ thấp đến cao, kể cả TBT phải thi hành nghiêm chỉnh! 
Như vậy về điểm quan trọng này cho thấy, một số vấn đề có tính cách đột suất và rất bất thường đã diễn ra: Cơ quan hay vài cá nhân nào trong BCT, hay chỉ một mình Nguyễn Phú Trọng đã quyết định ngày tổ chức ĐH 13? Tại sao trong HNTU 14 có thừa thì giờ để thảo luận và quyết định nhiều vấn đề quan trọng, đặc biệt là đề án nhân sự ở các cấp cao nhất trong BCT, BBT tới Tam-Tứ Trụ nhưng đã phải chấm dứt sớm? Vì thời gian dự tính họp HNTU 14 là suốt một tuần 7 ngày, từ 14.12.-20.12.20. Nhưng HNTU này đã chỉ họp tới trưa 18.12, nghĩa là thời gian họp đã rút bớt tới 2,5 ngày!
Nếu ở trong một xã hội Dân chủ Đa nguyên (DCĐN) và Pháp trị thì hành động trên – cố tình đổi trắng thành đen, nói không thành có – của TUĐ hoặc TBT Nguyễn Phú Trọng là lừa dối công khai đảng viên và nhân dân. Đặc biệt là ĐCSVN là đảng cầm quyền, làm như thế là đã cố tình lạm dụng quyền lực và lừa dối dư luận! Hãy tưởng tượng: Nếu ĐCSVN cầm quyền tại một nước DCĐN mà làm như vậy, thì tất cả báo-đài độc lập và các tổ chức dân sự đã loan tin về sự lật lọng của đảng và lập tức dư luận sẽ có phản ứng gay gắt với những người cầm đầu của đảng này. 
Tuy nhiên trong chế độ toàn trị của CSVN một đảng độc quyền đã họp hội nghị để quyết định về những người cũ và mới sẽ nắm vận mệnh quốc gia trong thời gian 5 năm tới. Nhưng kết thúc hội nghị này đã không cho nhân dân biết thời gian tổ chức hội nghị mới để bầu các người đứng đầu đảng và nhà nước, theo như lời hứa của họ là “công khai, minh bạch“, để “dân biết, dân bàn và dân kiểm tra” (nay còn cho vào thêm “dân thụ hưởng“!). Nhưng đùng một cái, chỉ sau hội nghị vài ngày các báo lề đảng đã dựng lên ngày họp của ĐH 13!
Câu hỏi cực kì quan trọng ở đây là, tại sao một số người có quyền lực đã phải vội vàng qua mặt TUĐ để đưa tin ngày họp của ĐH 13? Để làm gì và có lợi cho ai, cho phe nào?
HNTU 14 đã có những quyết định nào và Nguyễn Phú Trọng đã nói gì bên lề diễn văn khai mạc và bế mạc?
Trong diễn văn khai mạc sáng ngày 14.12 Nguyễn Phú Trọng đã nêu ra ba điểm chính để HNTU 14 thảo luận, bao gồm: 1. “Tiếp thu ý kiến đóng góp của nhân dân về các Dự thảo các văn kiện của ĐH 13; 2. “Giới thiệu nhân sự tham gia Bộ Chính trị, Ban Bí thư khoá XIII”; 3. “Dự thảo Quy chế làm việc và Quy chế bầu cử tại Đại hội XIII của Đảng.” Ngoài ra HNTU 14 cũng thảo luận về các báo cáo của TUĐ, BCT, Ban Kiểm tra trung ương toàn nhiệm kì 5 năm của Khóa 12.” (4)
Nhưng nếu theo dõi sát tình hình nội bộ các phe trước, trong và sau HNTU 14 của một vài nhân vật chính, đặc biệt là Nguyễn Phú Trọng, Trần Quốc Vượng và Nguyễn Xuân Phúc thì sẽ thấy, trọng tâm chính của HNTU này là các ghế trong BCT, BBT và cực kì quan trọng là các ghế giành cho “Tam-tứ trụ” trong nhiệm kì 5 năm tới và sẽ được quyết định tại ĐH 13 vài tuần tới. Một số nhân vật chính và các phe vây cánh của mỗi người đều muốn giành cho bằng được các ghế cao (BCT, BBT) và các ghế tột đỉnh (tức TBT, CTN, Thủ tướng và Chủ tịch Quốc hội). Phe Nguyễn Phú Trọng đặt ra những Nghị quyết đề ra các tiêu chuẩn cao vòi vọi cho các chức danh này về đạo đức, tài năng, lập trường chính trị và lí lịch nhân thân. Họ cố tình làm cho mọi người có cảm tưởng là, chỉ những người siêu phàm về đạo đức, tài năng và trên suốt đường quan lộ trong sạch như thánh sống mới lọt được vào các ghế quyền cao chức trọng! Nhưng trong thực tế việc dựng lên bức tường theo kiểu “luật pháp XHCN” này chỉ là hình thức bề ngoài để họ cố tình viện dẫn những lí do này hay lí do khác để cản hoặc đá lẫn nhau, thậm chí loại các đồng chí không cùng vây cánh!
Sự tranh giành quyền lực trong BCT, BBT và đặc biệt ở cấp tối cao “Tam-tứ trụ” hoàn toàn chưa ngã ngũ ngay cả trong HNTU 14 vừa qua. Trong diễn văn bế mạc sáng 18.12 tuy Nguyễn Phú Trọng đã hoan hỉ cho biết, HNTU 14 “hoàn thành toàn bộ nội dung chương trình đề ra (kết thúc sớm hơn 2 ngày so với dự kiến)”, “hoàn chỉnh lần cuối các dự thảo và hoàn tất việc chuẩn bị các văn kiện trình Đại hội XIII”. “BCHTU đã “bỏ phiếu biểu quyết với sự nhất trí rất cao nhân sự tham gia Bộ Chính trị, Ban Bí thư khoá XIII, bao gồm cả nhân sự Bộ Chính trị, Ban Bí thư khoá XII tái cử và nhân sự lần đầu tham gia Bộ Chính trị, Ban Bí thư”. 
Nhưng thực sự thì lại khác, các dự tính đưa người cùng cánh vào BCT-BBT đang gặp cản trở cực lớn. Trong diễn văn chính thức (bản in) thì nói đã đạt “nhất trí cao”, nhưng trong buổi sáng bế mạc ngày 18.12 Nguyễn Phú Trọng phải nhìn nhận vẫn còn hoàn toàn bế tắc “nhất là đối với BCT, BBT” và “đặc biệt là các cán bộ chủ chốt”. Nghĩa là các ghế trong BCT và BBT các phe chưa đạt được thỏa thuận với nhau. Gay go hơn nữa là, ngay cả các ghế cực kì quan trọng giành cho “Tam-tứ trụ” cũng vẫn còn những bất đồng rất lớn giữa các phe. Vì thế HNTU 14 đã phải chấm dứt sớm 2,5 ngày! Nhưng ở đây cần phải lưu ý đặc biệt là, Các bế tắc này Nguyễn Phú Trọng đã KHÔNG DÁM ĐỂ TRONG DIỄN VĂN CHÍNH THỨC, nhưng ông đã chỉ NÓI BÊN LỀ khi đọc diễn văn chính thức. Cho nên trong bản in diễn văn chính thức không có các câu trên, nhưng ông Trọng chỉ nói việc này ngoài lề trong vài giây mà thôi. Cho nên chỉ khi nghe trực tiếp diễn văn này mới biết được sự thú nhận của ông Trọng về sự bế tắc trong giải pháp nhân sự ở các cấp cao nhất cho ĐH 13 (ở phút 21.30).(5)
Tại sao tình trạng bế tắc và tranh giành quyền lực giữa các phe trong các ghế cao nhất lại đang tiếp diễn bùng nổ dưới chế độ độc tài của CSVN? Trong các xã hội DCĐN việc chọn lựa chủ tịch đảng và các nhân vật cao cấp trong đảng đều diễn ra theo phương thức tranh cử công khai minh bạch từ trong nội bộ đảng tới công luận trong toàn xã hội. Các đảng viên muốn nắm các chức vụ quan trọng đều phải ứng cử hoặc được đề cử công khai và tại đại hội đảng các đại biểu sẽ bỏ phiếu kín công khai. 
Trong ĐCSVN phương thức chọn lựa người đứng đầu đảng thì lại hoàn toàn khác. Mặc dầu ĐLĐ của ĐCSVN qui định cũng dân chủ, nhưng thực hành thì lại cực kì độc tài, giấm giúi, mua chuộc, chạy chọt; các phe tìm mọi thủ đoạn chèn ép, chụp mũ, thanh toán lẫn nhau. Việc này không chỉ mới diễn ra hiện nay mà đã kéo dài mấy chục năm qua, ít nhất là từ thời Đỗ Mười làm TBT tại ĐH 7 (1991). Đã có những giai đoạn các bên lật nhau ngay tại các HNTU. Như tại HNTU 10 (10-20.4.1996) phe Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã phá tan tành kế hoạch của TBT Đỗ Mười và CTN Lê Đức Anh muốn đưa Đào Duy Tùng và Nguyễn Hà Phan làm TBT và Thủ tướng(6). Tiếp đến Đỗ Mười đảo chính hạ Lê Khả Phiêu đưa Nông Đức Mạnh làm TBT từ ĐH 9 suốt 10 năm để đứng đằng sau giựt dây. (7)
Nguyễn Trọng đang nhốt Đảng và cả Dân tộc trong lồng tham nhũng quyền lực do chính ông dựng lên!
Sau khi lên ngôi TBT tại ĐH 11 (1.2011) Nguyễn Phú Trọng tập trung dùng mọi thủ đoạn để loại Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Cuộc trường kì đánh phá nhau khi công khai khi ngấm ngầm giữa ông Tổng và ông Thủ kéo dài suốt 5 năm tàn ác và nhơ nhuốc chưa từng có trong ĐCSVN. Nhưng để chiến thắng được chọn làm “trường hợp đặc biệt” nắm ghế TBT tiếp tục tại ĐH 12 (2016) Nguyễn Phú Trọng đã phải thỏa thuận với các phe trong BCT, BBT và TUĐ khi đó và hứa suông là sẽ rút lui vào giữa nhiệm kì của Khóa 12. Vì thế số ủy viên BCT Khóa 12 lên tới rất cao là 19 người, so với một số khóa trước trung bình chỉ 13-15 ủy viên BCT. Nhưng không lâu sau đó người được coi như sẽ kế vị Nguyễn Phú Trọng là Đinh Thế Huynh, Thường trực BBT lại bị bệnh nặng. Trần Quốc Vượng thế chân cho Đinh Thế Huynh làm Thường trực BBT (5.2018). Tiếp đó Trần Đại Quang chết đột ngột (2018) và Nguyễn Phú Trọng chộp thời cơ nắm luôn ghế CTN (10.2018) (8). Nhưng từ đầu năm 2019 ông Trọng bị bệnh nặng tai biến mạch máu nên nhiều công việc quan trọng đã không thể trực tiếp đảm nhiệm, vì thế ông Trần Quốc Vượng đã phải quán xuyến thay.
Ông Trọng nuôi tham vọng cao, nhưng đang ở trong hoàn cảnh lực bất tòng tâm và rơi vào tình trạng lưỡng nan, dùng dằng nửa ở nửa về, tính một đằng nhưng tình thế lại xô đẩy vào hoàn cảnh rất bấp bênh. Là người cực kì bảo thủ cố chấp lại rất tham lam quyền lực, mặc dù đã gần 77 tuổi và bị bệnh nặng, sức khỏe ngày càng yếu. Trong thế bất đắc dĩ nhưng lại vẫn muốn nuôi tham vọng tiếp tục dùng quyền lực trực tiếp hoặc gián tiếp, nên ông đang tìm mọi cách để Trần Quốc Vượng thay thế trong chức TBT. Vì ông Vượng cũng rất bảo thủ lại là người miền Bắc và là cánh tay mặt của Nguyễn Phú Trọng trong suốt thập niên vừa qua. Trong trường hợp này Nguyễn Phú Trọng vẫn có thể đứng đằng sau giật dây. Đây là cách cựu TBT Đỗ Mười đã thực hiện thành công trong thời gian Nông Đức Mạnh làm TBT suốt 10 năm (2001-2011). Chẳng những thế vẫn theo tính toán này, nếu điều kiện cho phép, Nguyễn Phú Trọng có thể tiếp tục làm CTN một thời gian nữa thì lại càng tốt, vừa kéo dài được quyền lực vừa bảo đảm được định hướng chính trị bảo thủ giáo điều của ông! 
Nhưng cái kẹt lớn nhất là uy tín của Trần Quốc Vượng trong nhân dân rất thấp, tín nhiệm trong Đảng không cao, ngay cả đối với nhiều Ủy viên Trung ương và BCT. Tư cách của Trần Quốc Vượng đang bị dư luận đặt dấu hỏi lớn. Mới đây giữa lúc dư luận trong Đảng và ngoài xã hội đang dội lên đòi hỏi phải công khai minh bạch, không để những phần tử mua quan bán tước, thu vén gia đình nhẩy lên các chức vụ then chốt trong ĐH 13. Trong khi HNTU 14 họp bàn về đề án nhân sự các cấp cao thì nhà báo trẻ tuổi Trương Châu Hữu Danh đã bị bắt ngày 17.12.20 với lí do “lợi dụng tự do dân chủ”. Nhà báo này nổi tiếng trong những năm qua vì các bài điều tra chính xác liên quan tới các điểm nóng và rất nhạy cảm trong chính trị của nhiều cán bộ cao cấp. Trong số này có bài đưa tin là, ông Trần Quốc Vượng đã từng vận động cho con trai “thăng tiến thần tốc”. (9)
Cũng chính vào dịp này nhiều người dân chủ ở trong nước cũng bị đe dọa, vì họ đã lên tiếng phê bình các văn kiện dự thảo của ĐH 13 vẫn chỉ lập lại những chủ trương và đường lối độc tài và sai lầm. Nên trong diễn văn khai mạc HNTU 14 Nguyễn Phú Trọng lại cho biết, chính ông đứng đằng sau các biện pháp đàn áp báo chí và giam giữ các người dân chủ để bịt miệng dư luận: “Chúng ta đã chỉ đạo báo chí, công luận kịp thời phản bác, cái đó là cái rất tốt”. (10)
Chính thái độ ương ngạnh, độc đoán của Nguyễn Phú Trọng vẫn muốn tiếp tục tuyển lựa giấm giúi người thân tín kế vị mình như thế, nên trong Đảng và nhân dân lại càng không phục. Chính vì thế đã và đang gây ra những tranh cãi, nghi ngờ giữa họ với nhau ngày càng gay gắt đến độ Trần Quốc Vượng trước đây một năm đã phải lên tiếng đe dọa trực tiếp: “Thành trì XHCN cả hệ thống Đông Âu như vậy ai cũng tưởng rằng không bao giờ đổ mà cơ đồ đổ xuống biển sâu, có nhiều nguyên nhân nhưng cơ bản là nguyên nhân công tác cán bộ, là người đứng đầu. Nên ta phải hết sức chú ý, phải làm sao để Đảng ta không bao giờ vướng vào chuyện như vậy”. “Hết sức chú ý công tác nhân sự. Đây là vấn đề quan trọng vì cơ đồ ta xây dựng 75 năm nay sụp đổ hay không cũng do mình thôi, chẳng phải do kẻ thù đâu, chẳng ai xâm lược mình, chẳng ai mang máy bay, đại bác đến xâm lược, lật đổ chúng ta đâu. Ta không làm tốt thì tự ta lật đổ ta.”(11)
Trong khi đó Nguyễn Phú Trọng tìm cách vỗ về, dụ dỗ, kêu gọi đoàn kết trong BCT: “Lãnh đạo phải đoàn kết, không “cua cậy càng, cá cậy vây”(12) và “trong quá trình lựa chọn, bố trí, sắp xếp nhân sự cụ thể, cần thống nhất quan điểm là không quá cầu toàn, không quá tuyệt đối hoá. Các cụ ta đã có câu: “Nhân vô thập toàn”, con người ta ai cũng có điểm mạnh, điểm yếu (“Ngọc còn có vết nữa mình với ta”) (13). Nhưng đồng thời ông cũng cảnh cáo những ủy viên Trung ương và BCT muốn làm trái lời khuyên của ông: “Quyết liệt ngăn chặn, thanh lọc, đưa ra khỏi quy hoạch những thành phần cơ hội, suy thoái, không để những “con lươn, con chạch” chui vào bộ máy của Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị.” (14)
Những lời đe dọa của Nguyễn Phú Trọng và Trần Quốc Vượng dường như chẳng có hiệu lực lớn, trái lại càng gần ĐH những đòi hỏi phải công khai hóa tên tuổi những người được chọn vào TUĐ, BCT, BBT và nhất trong “Tam-tứ trụ”. Thật vậy chỉ ít ngày sau HNTU 14 kết thúc MTTQ đã mở Hội nghị Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam lần thứ 4 (Khóa 9) ngày 21.12.20. Từ trước tới nay MTTQ thường bị khinh rẻ và bị diễu cợt là “chuột muốn kiểm tra mèo”; nhưng lần này đã lên tiếng đòi: “Các đại biểu cũng đề nghị công khai danh sách những cán bộ dự kiến bầu vào Trung ương trước khi diễn ra Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII để nhân dân đóng góp ý kiến.” (15) Trong dịp này có mặt Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Dân vận Trung ương Trương Thị Mai; Bí thư Trung ương Đảng, Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam Trần Thanh Mẫn… Cùng lúc ấy có những đảng viên tên tuổi đã đưa ra những đòi hỏi khác về “sức khỏe và trách nhiệm nêu gương” đối với các cán bộ dự kiến đưa vào cấp cao. Việc này ám chỉ tới trường hợp của Nguyễn Phú Trọng là người thường lớn tiếng đòi những người đứng đầu có “trách nhiệm nêu gương”. Nhưng tại sao Nguyễn Phú Trọng từ gần một năm qua bị bệnh nặng không đảm nhiệm được nay vẫn muốn ở lại? 
Có lẽ những đòi hỏi trên nổi lên trong hội nghị của MTTQ được sự ủng hộ và thúc đẩy của một vài nhân vật có thế lực nhưng chưa dám xuất hiện ngay. Chỉ một ngày sau Trần Quốc Vượng cũng có mặt tại hội nghị này đã quật lại và lên giọng: “Kiên quyết loại những người không đủ tiêu chuẩn, không để lọt vào khóa mới.” (16)
Sự giành giựt ghế cao giữa một vài nhân vật của các phe càng trở lên quyết liệt hơn. Vì thế phe Nguyễn Phú Trọng thấy rõ sự nguy hiểm có thể không còn kiểm soát được tình hình, cho nên cần phải có biện pháp cưỡng bách những thành phần còn lưỡng lự chưa dứt khoát phải sớm nhập cuộc theo phe mình. Do đó họ phải ra tay sớm để ngăn chặn làn sóng phản đối việc dấu nhẹm danh sách các người được đưa vào BCT, BBT và đặc biệt các chức trong “Tam-tứ trụ”. Cho nên chỉ hai ngày sau khi MTTQ lên tiếng thì phe Nguyễn Phú Trọng đã đưa ra quyết định đơn phương ngày tổ chức ĐH 13 từ 25.12.2020 tới 2.2.2021, trùng với dịp kỉ niệm 91 năm Đảng CS ra đời. Đồng thời cố trình bày lắt léo lươn lẹo làm như đây là quyết định chung của TUĐ và HNTU 14 đã quyết định ít ngày trước!
Ngoài quyết định phải công bố ngày ĐH 13 họp mặc dầu đó không phải là quyết định của HNTU 14, phe Nguyễn Phú Trọng còn tìm cách bắt Nguyễn Xuân Phúc phải kí Quyết định ngăn chặn việc đưa tin về những nhân vật được đề cử vào các chức vụ quan trọng trong Đảng và Nhà nước, kể cả những người được xếp vào “các trường hợp đặc biệt”. Cho nên ngày 30.12.20 nhiều báo đã đưa tin: “Thông tin về phương án nhân sự Ủy viên Bộ Chính trị là Tổng bí thư, Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Quốc hội, Thường trực Ban Bí thư chưa công khai là loại thông tin “Tuyệt mật”” (17). Và còn nhấn mạnh, ai đã ra lệnh cho Nguyễn Xuân Phúc kí Quyết định này: “Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc vừa ký quyết định về việc ban hành danh mục bí mật nhà nước của Đảng. Quyết định được ký theo đề nghị của Văn phòng T.Ư Đảng” (18). Nghĩa là theo lệnh của Thường trực BBT Trần Quốc Vượng, Nguyễn Xuân Phúc không được phép cho báo chí lộ những tin liên quan tới dàn nhân sự cao cấp đang được dựng lên do sự thao túng của một vài người có quyền lực nhất!
Vì đa nghi, độc tài và sợ bị hất cẳng trước HNTU 15 vào ngày 15.1.2021, nên chỉ một ngày sau tại Hội nghị toàn quốc tổng kết công tác dân vận nhiệm kỳ Đại hội XII Trần Quốc Vượng lại lồng lộn đe dọa và kết án nhiều cơ quan và cán bộ cấp cao: “Kiên quyết không bố trí cán bộ thiếu gương mẫu, đạo đức kém, vi phạm kỷ luật làm công tác dân vận” (19). Dư luận đặt câu hỏi lớn, ông Vượng đe dọa ai? Có phải là đe dọa ủy viên BCT kiêm Trưởng ban Dân vận Trung ương Trương Thị Mai cũng đang muốn được xếp ghế cao hơn và Bí thư TUĐ Chủ tịch MTTQ Trần Thanh Mẫn? Chính những người này vài ngày trước đã để cho nhiều đại biểu tại Hội nghị của MTTQ đòi “công khai danh sách những cán bộ dự kiến bầu vào Trung ương trước khi diễn ra Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII để nhân dân đóng góp ý kiến.”
*** 
Nguyễn Phú Trọng là trung tâm quyền lực hiện nay ở VN. Ông ta đã nắm quyền từ khi làm Chủ tịch Quốc hội và đặc biệt là từ khi làm TBT suốt 10 năm qua và từ đó ông coi chức TBT như ngôi vua dưới vương triều toàn trị CS. Tuy không thể thực hiện cha truyền con nối thời phong kiến được nữa, nên ông đã chọn cách tìm người kế vị trong số những người trung thành nhất, dễ bảo nhất. Theo tính toán ích kỉ và thiển cận của ông, coi đó là cách hay nhất để ông có thế tiếp tục thao túng quyền lực, dù tuổi cao và bệnh nặng. Kế hoạch nhân sự ở cấp cao nhất hiện nay của ông đều tập trung trong suy tính cực kì ích kỉ và bảo thủ phong kiến này. Là người CS cực kì bảo thủ lại chịu ảnh hưởng tập quán phong kiến của phương Đông, nên Nguyễn Phú Trọng lãnh đạo đảng và cai trị đất nước giống như một chánh tổng hay xã trưởng trong một làng ở miền Bắc trước đây một thế kỉ! Không thế chờ đợi một người có tư duy và tâm lí độc tài phong kiến bảo thủ như ông Trọng làm khác được. Và vì thế không thể chờ đợi những người đang được Nguyễn Phú Trọng chọn làm người kế vị và những người trong BCT, BBT. Họ chỉ là những người quen núp theo bóng cây đa cây đề, không dám có tư duy sáng suốt, độc lập. Cũng như Nguyễn Phú Trọng tay họ cũng đã bị nhúng chàm tham nhũng quyền lực, tham nhũng tiền bạc, đất đai, hoặc cả hai. Tác phong và tư cách rất tồi tệ của những người nắm vận mệnh Đảng và đất nước đã được chính Mai Tiến Dũng, Ủy viên Trung ương và Bộ trưởng Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ, tâm sự: “Chúng tôi núp dưới bóng cây đa, cây đề chứ không có hình ảnh gì cả.” (20)
Là những tay phù thủy chính trị lão luyện, Nguyễn Phú Trọng và những người vây cánh biết khai thác những mánh khóe mị dân, cho nên đã đưa ra những khẩu hiệu “Dân chủ đến thế là cùng!”, “Thực hiện công khai, minh bạch”, “Nhốt quyền lực trong lồng”“Thực hiện khát vọng của đất nước”. Đây chẳng qua chỉ là nhắm mắt bắt chước người “Bạn” Tập Cận Bình cũng ra sức đề cao “khát vọng phát triển đất nước”. Nhưng đưa ra những khẩu hiệu kêu như vậy, chỉ là cách ông Trọng cố tình đánh lừa tình hình tham nhũng như rươi trong mọi ngành, các nhóm lợi ích mọc lên như nấm; biến VN trở thành nước đứng đội sổ trên thế giới về đàn áp nhân quyền, bịt miệng báo chí, bao nhiêu phụ nữ, thanh niên, trí thức và nhân sĩ dân chủ đang bị giam cầm! 
Nay trước ĐH 13 các thủ đoạn dối trá, mị dân cũng đang được tung lên, như, “đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập Nước: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao” (21). và để “dân biết, dân bàn, dân kiểm tra, dân thụ hưởng”. Nhưng trong thực tế không ai quên, là từ ĐH 8 (1996) trước đây 25 năm họ đã từng đưa ra chủ trương với mục tiêu là đưa VN tới năm 2020 trở “thành một nước công nghiệp”. Tuy nhiên năm 2020 vừa kết thúc, nhưng VN vẫn là một nước đói nghèo so với ngay nhiều nước trong khu vực! Năm 1986 trước nguy cơ Liên xô sụp đổ, Trung quốc bao vây và Mỹ cùng Tây phương cấm vận, nên họ buộc lòng treo đầu dê “đổi mới”, nhưng suốt gần 35 năm qua trước sau vẫn là chế độ độc đảng toàn trị! (22)
Những sự thực trắng đen như ban ngày giữa nói và làm của những người cầm đầu CSVN suốt trên 75 năm chỉ chứng minh một điều duy nhất là, họ chỉ muốn thực hiện khát vọng quyền lực độc quyền cho chính những người cầm đầu Đảng trong từng giai đoạn. Chính khát vọng phục vụ quyền lợi ích kỉ cho bản thân và phe nhóm được bọc trong chế độ độc đảng và thực hành theo chủ nghĩa Marx-Lenin đã đẩy đất nước tới tình trạng đen tối hiện nay!
Hai cái “đặc biệt” đang làm nghẽn cả đảng lẫn đất nước, đó là chế độ độc đảng và chủ nghĩa Marx-Lenin: Tuy hai nhưng thực tế chỉ là một. Ngày càng nhiều đảng viên và nhân dân đều thấy rõ như vậy, nó gây bế tắc toàn bộ nên đất nước không thể đi lên. Nó làm cho giải pháp chọn nhân sự ở cấp cao nhất trong Đảng và Nhà nước càng bị khép kín trong tay bọn tham quyền, tham tiền, tham đất… Chính sử dụng hai cái “đặc biệt” này nên Nguyễn Phú Trọng mới có thể lợi dụng bắt Trung ương đảng xếp cho mình vào “trường hợp đặc biệt” dù đã quá tuổi để lên làm TBT tại ĐH 12. Nay trước ĐH 13 Nguyễn Phú Trọng cũng lại tìm cách xếp cho mình và vây cánh vào “trường hợp đặc biệt”. Nó đang gây ra những tiền lệ cực kì phản động tồi tệ, nên nhiều nhân vật khác cũng đang ép Nguyễn Phú Trọng cũng phải xếp họ vào “trường hợp đặc biệt”. Cách tranh giành quyền lực cực kì bất chính giữa các phe với nhau theo mức độ gia tăng nhanh và tàn khốc từ ĐH này sang ĐH khác. Nó đi theo đường vòng trôn ốc đang dẫn chế độ độc tài toàn trị tới ngõ cụt! Nguyễn Phú Trọng đang nhốt Đảng và cả Dân tộc trong lồng tham nhũng quyền lực do chính ông dựng lên!
Chú thích:
https://baochinhphu.vn/Thoi-su/Thong-bao-Hoi-nghi-lan-thu-14-Ban-Chap-hanh-Trung-uong-Dang-khoa-XII/417359.vgp
(3) Xem 1
(6)Âu Dương Thệ, Việt Nam “Đổi Mới”?! Hay: Treo đầu dê, bán thịt chó! https://www.amazon.de/-/en/Th%E1%BB%87-%C3%82u-D%C6%B0%C6%A1ng/dp/0244794367. Chương ba, XIII Chọn người kế vị: Nhân định hay thiên định? Giải pháp Đào Duy Tùng – Nguyễn Hà Phan làm TBT và TT bất thành, tr. 149 -158
(7) Cùng tác giả, Chương năm: Đại hội 9 (4.2001)-Lá bài Nông Đức Mạnh của Đỗ Mười, tr.237-343
(8) Cùng tác giả, Tập II, Chương kết, tr. 238 tiếp theo
(10) Xem 4
(11) VN Net (VNN) 25.12.19
(12) VNN 3.2.20
(13) Nguyễn Phú Trọng, diễn văn tại Hội nghị Cán bộ toàn quốc chuẩn bị cho ĐH 13, 23.4.20; https://vtv.vn/trong-nuoc/toan-van-bai-viet-cua-tong-bi-thu-chu-tich-nuoc-nguyen-phu-trong-ve-cong-tac-chuan-bi-nhan-su-dai-hoi-xiii-cua-dang-20200426114410265.htm
(14) Quân đội Nhân dân 20.1.20
(15) VOV 21.12.20
(16) Hội nghị lần thứ ba Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam sáng 22/12, VNN 22.12.20.
(18) Như trên
(19) Thanh niên 31.12.20
(20) VNN 1.1.21
(21) Nguyễn Phú Trọng, diễn văn bế mạc HNTU 10, CP 9.10.20
(22) Cùng tác giả, Tập I và II
5.1.2021


Tổ chức đại diện người lao động: vẫn chỉ là ước mong!

– Cho đến hết ngày 31/12/2020, số lượng văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn Bộ luật Lao động năm 2019 được ban hành mới chỉ đếm được trên đầu ngón tay thay vì phải ban hành trên 20 văn bản theo kế hoạch. Thậm chí, nghị định quy định về tổ chức đại diện người lao động và một số nghị định khác còn chưa được công bố dự thảo để lấy ý kiến theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

Ngày 03/12/2019, ông Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch nước Cộng hoà XHCN Việt Nam đã ký Lệnh số 08/2019/L-CTN về việc công bố Bộ luật Lao động đã được Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam khóa XIV, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 20 tháng 11 năm 2019 (Bộ luật Lao động năm 2019), có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2021.
Nội dung thay đổi quan trọng nhất trong Bộ luật Lao động được ban hành lần này, theo đánh giá của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), là khả năng người lao động tại doanh nghiệp được quyền thành lập hay tham gia một tổ chức đại diện do họ lựa chọn, không nhất thiết phải là thành viên của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam. Giám đốc ILO Việt Nam giải thích: “Tự do hiệp hội là một quyền cơ bản được nêu trong Tuyên bố về các Nguyên tắc và Quyền cơ bản trong Lao động năm 1998 của ILO. Tự do hiệp hội giúp cải thiện quá trình thương lượng tập thể, cho phép người lao động được hưởng lợi ích công bằng hơn và cho phép doanh nghiệp thỏa thuận những cải thiện năng suất cần thiết.”
Theo đó, Bộ luật Lao động năm 2019 có một chương riêng về Tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở bên cạnh tổ chức Công đoàn (chương XIII). Chương này thay cho chương quy định về Công đoàn cơ sở trong Bộ luật Lao động năm 2012. Tuy nhiên, luật mới chỉ quy định khung về Tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở, quy định chi tiết sẽ do Chính phủ ban hành.
Ngày 06/01/2020, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc ký Quyết định số 24/QĐ-TTg ban hành Danh mục và phân công cơ quan chủ trì soạn thảo văn bản quy định chi tiết thi hành các luật, bộ luật, nghị quyết được Quốc hội khóa XIV thông qua tại Kỳ họp thứ 8. Theo danh mục này, Nghị định quy định về tổ chức đại diện người lao động (khoản 4 Điều 172; khoản 2 Điều 176; khoản 2 Điều 174) do Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội chủ trì soạn thảo, phối hợp với Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ và các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan, tổ chức có liên quan trình hoặc ban hành trước ngày 15/9/2020.
Sáng ngày 11/3/2020, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội tổ chức họp bàn đôn đốc việc xây dựng văn bản hướng dẫn chi tiết thực hiện Bộ luật Lao động 2019. Bộ trưởng Đào Ngọc Dung chủ trì cuộc họp, cùng dự có các Thứ trưởng Lê Văn Thanh, Lê Tấn Dũng, Nguyễn Thị Hà, Lê Quân cùng lãnh đạo các đơn vị. Bộ trưởng yêu cầu, trước hết để thực hiện đúng cam kết trước Quốc hội, trước Chính phủ, khi Bộ luật Lao động có hiệu lực vào ngày 01/01/2021, các văn bản dưới luật, các Thông tư do Bộ chịu trách nhiệm xây dựng cũng đồng thời được ban hành, không để tình trạng Bộ luật phải chờ Nghị định, Thông tư. “Bộ luật Lao động đi vào vận hành sẽ mở đường xây dựng một quan hệ lao động mới, một thị trường lao động mới đồng bộ, hội nhập và lành mạnh, đảm bảo sự hài lòng của người dân, của doanh nghiệp, của cơ quan quản lý nhà nước…” – Bộ trưởng Đào Ngọc Dung nhấn mạnh.
Với những động thái và tuyên bố rất mạnh mẽ và tích cực của lãnh đạo Chính phủ và các bộ, ngành của Việt Nam về việc sớm đưa Bộ luật Lao động năm 2019 đi vào cuộc sống, các cơ quan truyền thông, các tổ chức xã hội dân sự, những nhà quan sát và hoạt động xã hội ở trong và ngoài nước cũng như đông đảo người lao động Việt Nam tràn trề hy vọng từ ngày 01/01/2021 khi Bộ luật Lao động năm 2019 có hiệu lực, người lao động sẽ chính thức được thành lập các tổ chức đại diện cho mình tại cơ sở, thay vì chỉ được lựa chọn tham gia vào tổ chức Công đoàn như lâu nay. Đây được xem là quy định tiến bộ, đột phá trong Bộ luật này, và thực hiện đúng cam kết của Việt Nam trong các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới đã ký kết, gồm: EVFTA và CP-TPP.
Tuy nhiên, cho đến hết ngày 31/12/2020, số lượng văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn Bộ luật Lao động năm 2019 được ban hành mới chỉ đếm được trên đầu ngón tay thay vì phải ban hành trên 20 văn bản theo kế hoạch. Thậm chí, nghị định quy định về tổ chức đại diện người lao động và một số nghị định khác còn chưa được công bố dự thảo để lấy ý kiến theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Điều đó đồng nghĩa Quyết định số 24/QĐ-TTg ngày 06/01/2020 của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã không được Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội và các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan, tổ chức có liên quan thực hiện theo đúng yêu cầu. Cam kết của Bộ trưởng Đào Ngọc Dung trước Quốc hội, trước Chính phủ rằng khi Bộ luật Lao động có hiệu lực, các văn bản dưới luật, các Thông tư do Bộ chịu trách nhiệm xây dựng cũng đồng thời được ban hành, không để tình trạng Bộ luật phải chờ Nghị định, Thông tư đã không thành hiện thực.
Để tìm câu trả lời về nguyên nhân của sự chậm trễ ban hành các quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số nội dung quan trọng của Bộ luật Lao động năm 2019, tác giả đã tìm hiểu thêm các cam kết về lao động của Việt Nam trong các Hiệp định EVFTA và CP-TPP.
Tham gia CP-TPP, Việt Nam có thời gian 3-5 năm để đáp ứng các điều kiện về lao động theo cam kết. Theo đó, nếu Việt Nam có vi phạm các cam kết chung liên quan tới lao động, các nước không áp dụng các biện pháp cắt giảm ưu đãi thương mại trong thời hạn 3 năm từ ngày hiệp định có hiệu lực. Nếu Việt Nam có vi phạm với quyền tự do lập hội và thương lượng tập thể, các nước không áp dụng biện pháp đình chỉ ưu đãi thương mại trong thời gian 5 năm đầu. Trong thời gian năm thứ 5 đến năm thứ 7 CP-TPP có hiệu lực, các bên sẽ rà soát về các vi phạm của Việt Nam (nếu có) về quyền tự do hiệp hội.
Về lao động trong EVFTA, các bên cam kết tiếp tục và duy trì các nỗ lực nhằm phê chuẩn các công ước cơ bản của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) và xem xét việc thông qua các công ước khác được ILO phân loại là phù hợp với thời điểm hiện tại, có tính đến điều kiện trong nước. Ngoài ra, các bên tái khẳng định cam kết của mình về việc thực hiện có hiệu quả luật pháp và quy định trong nước và các Công ước của ILO đã được phê chuẩn. Tuy nhiên, Việt Nam dự kiến phê chuẩn Công ước 87 về tự do hiệp hội và bảo vệ quyền tổ chức vào năm 2023.
Phải chăng Chính phủ Việt Nam đang tận dụng khoảng thời gian không bị chế tài đối với các vi phạm các cam kết chung liên quan tới lao động trong các Hiệp định thương mại tự do nói trên ít nhất cho đến năm 2023 để trì hoãn việc thi hành trên thực tế các điều khoản trong chương XIII của Bộ luật Lao động năm 2019 về Tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở? Nếu vậy thì mong ước của người lao động Việt Nam được thành lập hay tham gia một tổ chức đại diện tại cơ sở do chính mình lựa chọn vẫn còn khá xa vời.
Hà Nội, ngày 04/01/2021
Tài liệu tham khảo:


Tuyên bố của Đặc ủy Nhân quyền của Chính phủ Đức về việc kết án 3 nhà báo Việt Nam

biên dịch – Hôm nay ngày 05.01.2021, về việc kết án các nhà báo Việt Nam Phạm Chí Dũng, Nguyễn Tường Thụy và Lê Hữu Minh Tuấn, Đặc ủy Nhân quyền của Chính phủ Cộng hòa Liên bang Đức tại Bộ Ngoại giao, bà Bärbel Kofler phát biểu như sau:

“Một lần nữa, các nhà hoạt động ở Việt Nam lại bị kết án tù dài hạn vì tranh đấu ôn hòa cho tự do báo chí và tự do bày tỏ ý kiến cũng như thành lập các công đoàn tự do và độc lập. Chính phủ Việt Nam đang tiếp tục đường lối đàn áp xã hội dân sự cũng như quyền tự do bày tỏ ý kiến và tự do biểu tình.

Với sự kết án này, Việt Nam đã vi phạm các công ước quốc tế mà nước này đã cam kết tuân thủ. Hiến pháp Việt Nam cũng đảm bảo quyền tự do bày tỏ ý kiến và tự do báo chí. Việc kết án các công dân vì hoạt động ôn hòa của họ là không chính đáng.

Tôi kêu gọi Chính phủ Việt Nam không bắt giam công dân thực hiện quyền của họ, trả tự do cho các tù nhân chính trị và để xã hội dân sự tham gia với các yêu cầu chính đáng của họ vào trong quá trình ra quyết định chính trị và tôn trọng nhân quyền của mọi người Việt Nam! “.
Đặc ủy Nhân quyền của Chính phủ Liên bang Đức, Bà Bärbel Kofler.
Thông tin về vụ việc:
Vào ngày 5 tháng 1 năm 2021, nhà báo Phạm Chí Dũng bị kết án tù dài hạn 15 năm tù, cộng 3 năm quản chế, và Nguyễn Tường Thụy cũng như Lê Hữu Minh Tuấn bị kết án 11 năm tù, cộng 3 năm quản chế; về tội “Tuyên truyền chống nhà nước”.
Là thành viên sáng lập kiêm Chủ tịch Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam (IJAVN), Phạm Chí Dũng từ lâu đã là một nhà đấu tranh cho dân chủ và nhân quyền. Cho đến khi bị bắt hồi tháng 11 năm 2019, ông ta viết tới 3 bài báo mỗi ngày cho nhiều hãng truyền thông trong và ngoài nước (bao gồm Đài Tiếng nói Hoa Kỳ VOA, Đài Á Châu Tự do RFA, đài BBC và đài RFI). Năm 2014, ông Dũng được Tổ chức Phóng viên Không Biên giới vinh danh là một trong 100 “Anh hùng thông tin”.
Nguyễn Tường Thụy là Phó Chủ tịch IJAVN kiêm Biên tập viên Đài Á Châu Tự Do RFA. Trong các bài viết của mình, ông Thụy tố cáo tham nhũng và các tệ nạn khác.
Lê Hữu Minh Tuấn cũng cộng tác với đài RFA trong tư cách là một nhà báo độc lập. Ông đưa tin về bất công xã hội, chính trị trong nước và phong trào dân chủ ở Việt Nam.
Nguồn: 


Trung cộng muốn bóp cổ Việt Nam ở Biển Đông

– Nguy cơ chiến tranh rất cao vì Lực lượng Hải Cảnh Trung Quốc được quyền dùng Vũ khí tấn công.

Luật Hải Cảnh của Trung Cộng ở Biển Đông và biển Hoa Đông, dự trù có hiệu lực năm nay, 2021, sẽ công khai gây chiến với Mỹ về quyền kiểm soát an ninh ở hai vùng biển chiến lược và bận rộn nhất thế giới, đồng thời đe dọa trực tiếp chủ quyền và quyền chủ quyền của Việt Nam và các nước Đông Nam Á.
Dự Luật dài 80 Điều, được Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc Trung Quốc (Quốc hội) công bố ngày 04/11/2020 và đã qua thời gian lấy ý kiến nhân dân ngày 3/12/2020, cho phép Lực lượng Hải cảnh sử dụng vũ khí chống người và thuyền, tầu nước ngoài. 
Dự Luât này dự trù sẽ được Quốc hội Trung Cộng chấp thuận trong tương lai gần.
Khi Luât này có hiệu lực, Lực lượng Hải cảnh Trung Cộng có toàn quyền kiểm soát và thực thi luật pháp của Bắc Kinh về an ninh trên hai vùng biển đang có tranh chấp giữa Trung Cộng, Đài Loan và Nhật Bản ở Quần đảo Senkaku (Điếu Ngư) ở biển Hoa Đông (1), và toàn vùng trong hình “Đường 9 đoạn” ( Lưỡi Bò), do Trung Quốc tự khoanh , chiếm ¾ diện tích của khoảng 3.447.000 cây số vuông ở Biển Đông. Hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam nằm trong hình vẽ đường Lưỡi Bò.
Vì vậy, nguy cơ bùng nổ chiến tranh ở Á Châu giữa Mỹ và Trung Cộng và ở Biển Đông giữa Trung Cộng và Việt Nam, nước đang kiểm soát 21 vị trí ở quần đảo Trường Sa, sẽ rất cao nếu Lực lượng Hải cảnh Trung Cộng sử dụng các loại võ khí, như Dự Luật cho phép, để bảo vệ điều được gọi là “quyền lợi cốt lõi” của Bắc Kinh trên biển.
Bộ Ngoại giao và Học giả Trung Cộng cho rằng Dự Luật Hải Cảnh là việc riêng của nước này nhằm bảo vệ an ninh vùng “nội thủy” của Trung Cộng và không liên quan đến các nước khác.
Nhưng vùng biển đảo bị Dự luật chi phối, lại hầu hết thuộc chủ quyền và quyền chủ quyền của các nước đang có tranh chấp với Bắc Kinh, lớn nhất giữa Việt Nam và Trung Cộng từ Hoàng Sa xuống Trường Sa. Ngoài ra còn có Phi Luật Tân, Nam Dương, Mã Lai và Brunei cũng tranh chấp với Trung Cộng ở Biển Đông.
Trung Hoa cũng muốn dành chủ quyền ở đảo Điếu Ngư đang do Nhật kiềm soát ở biển Hoa Đông.
Các học giả Quốc tế và chuyên gia về an ninh hàng hải ở Biển Đông lo ngại Trung Cộng, tuy không đồng loạt thi hành những biện pháp mạnh để độc quyền kiểm soát Biển Đông vì muốn tránh bị lên án là thủ phạm gây bất ổn định trong vùng Á Châu-Thái Bình Dương, nhưng sẽ quyết tâm thi hành Luật Hải Cảnh để ép các nước nhỏ chấp nhận vai trò bá chủ Biển Đông của Bắc Kinh.
Hành động đe dọa an ninh ở Biển Đông của Bắc Kinh cũng sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến giao thương hàng hải có trị giá khoảng 5 tỷ USD hàng năm.
Trước tình hình này, Hoa Kỳ đã phối hợp với Ân Độ, Nhật Bản và Úc Đại Lợi lập thành một vòng đai để bảo vệ lưu thông trên biển, đồng thời ngăn chặn ý đồ bành trướng của Bắc Kinh ở Á Châu-Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương.

Bá quyền ngoan cố
Trước bối cảnh Luật Hải Cảnh có hiệu lực, cũng cần nhắc lại rằng chù trương bá quyền ở Biển Đông của Trung Quốc đã có từ thời Đặng Tiểu Bình (1977). Khi ấy, họ Đặng nói với các nước trong khu vực rằng rằng, “chủ quyền là của Trung Quốc, hãy gác tranh chấp để cùng khai thác”. Từ đó đến thời Tập Cận Bình hiện nay, các Lãnh đạo Trung Hoa luôn luôn bảo “tất cả các đá, đảo và vùng nước xung quanh ở Nam Hải là của Trung Quốc từ thời cổ đại”, nhưng Bắc Kinh lại không có bằng chứng lịch sử để chứng minh.
Từ lập trường bá quyền thực dân này, Trung Cộng đã sử dụng võ lực chiếm Quần đào Hoàng Sa của Việt Nam ngày 19/1/1974. Sau đó, tấn công và chiếm 7 đá, đảo của Việt Nam ở quần đảo Trường Sa năm 1988. Từ đó đến nay, Trung Cộng đã tân tạo, mở rộng và biến 7 đảo thành các căn cứ Quân sự phòng thủ kiên cố có bến càng, sân bay và đài Radar theo dõi hoạt động của thuyền, tầu đi lại trên Biển Đông.
Riêng tại đảo Phú Lâm ở Hoàng Sa, Bắc Kinh đã xây dựng nhiều doanh trại cho lính đồn trú, trang bị các giàn hỏa tiễn và làm sân bay dài cho máy bay chiến đấu phản lực sử dụng.
Nay Trung Cộng lại muốn dùng Luật Hải Cảnh để hợp thức hóa “quyền chủ quyền” của mình, trên vùng biển và đảo của nước khác hay đang trong tình trạng tranh chấp.
Chống phán quyết 2016
Hành động này của Bắc Kinh đã công khai chống lại phán quyết ngày 12/07/2016 của Tòa Trọng tài thường trực Quốc tế (Permanent Court of Arbitration — PCA) tại The Hague, Hòa Lan, bác yêu sách chủ quyền của Trung Cộng trong vùng Đường 9 Đoạn (Lưỡi Bò).
Quyền chủ quyền trong vùng Đường 9 Đoạn tự vẽ của Trung Cộng bị phủ nhận trong vụ Phi Luật Tân kiện Trung Quốc, vì Bắc Kinh đã chèn ép để lấn chiếm vùng biển và đảo ở phía Tây Trường Sa mà Phi nhận có chủ quyền.
Sau 3 năm thụ án, Tòa đã phán quyết ngày 12/07/2016, về Quyền lịch sử và Đường 9 đoạn như sau:
“Toà Trọng tài nhận thấy có thẩm quyền để xem xét tranh chấp giữa các bên liên quan đến quyền lịch sử và nguồn của quyền hưởng các vùng biển tại Biển Đông. Về mặt nội dung thực chất, Toà kết luận rằng Công ước quy định một cách toàn diện về các quyền đối với các vùng biển, và việc bảo vệ các quyền tồn tại trước Công ước liên quan đến tài nguyên đã được xem xét, nhưng chúng không được thông qua và quy định tại Công ước. Theo đó, Tòa kết luận rằng trong phạm vi quyền lịch sử của Trung Quốc đối với các nguồn tài nguyên trong các vùng biển ở Biển Đông, quyền này bị xóa bỏ do chúng không phù hợp với chế định vùng đặc quyền kinh tế trong Công ước. Toà cũng nhận thấy dù trong lịch sử, những người đi biển cũng như ngư dân từ Trung Quốc cũng như từ các nước khác đã sử dụng các đảo tại Biển Đông nhưng không có bất kỳ bằng chứng nào cho thấy về mặt lịch sử Trung Quốc đã chỉ một mình thực hiện việc kiểm soát vùng nước này cũng như tài nguyên tại đây. Vì vậy, Toà kết luận không có cơ sở pháp lý để Trung Quốc yêu sách quyền lịch sử đối với tài nguyên tại các vùng biển phía bên trong đường 9 đoạn.”
(theo Tài liệu của báo Người Lao Động (VN), ngày 13/07/2016)
Sau khi giáng cho Trung Cộng đòn thua đau về Đường 9 Đoạn, Tòa tuyên bố về yêu sách chủ quyền của Trung Cộng về các cấu trúc trên biển Đông: “Toà tiến hành đánh giá liệu các có cấu trúc nào trong số các cấu trúc do Trung Quốc yêu sách có thể tạo ra vùng biển ngoài phạm vi 12 hải lý không. Theo Công ước (về Luật biển Liên Hiệp Quốc năm 1982), các đảo tạo ra vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý và thềm lục địa nhưng các “đảo đá không thích hợp cho con người đến ở và có đời sống kinh tế riêng không có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa”. Toà kết luận rằng quy định này phụ thuộc vào khả năng khách quan của các cấu trúc khi chúng ở tình trạng tự nhiên để có thể duy trì một cộng đồng dân cư ổn định hoặc các hoạt động kinh tế mà không phụ thuộc vào các nguồn lực từ bên ngoài hoặc hoàn toàn chỉ có tính chất khai thác. Toà cũng nhận thấy rằng sự có mặt của các nhân viên công vụ trên các cấu trúc là phụ thuộc vào sự hỗ trợ từ bên ngoài và không phản ánh khả năng của các cấu trúc. Toà cũng thấy rằng các bằng chứng lịch sử có ý nghĩa hơn và nhận thấy quần đảo Trường Sa trong lịch sử được sử dụng bởi một số nhóm nhỏ các ngư dân và rằng đã có một vài hoạt động khai thác phân dơi và đánh cá của Nhật Bản. Toà kết luận rằng việc việc sử dụng ngắn hạn như vậy không phải là sự định cư của một cộng đồng ổn định và rằng các hoạt động kinh tế trong lịch sử chỉ là hoạt động mang tính khai thác. Theo đó, Toà kết luận rằng không một cấu trúc nào tại Trường Sa có khả năng tạo ra các vùng biển mở rộng. Toà cũng quyết định rằng các đảo Trường Sa không thể cùng nhau tạo ra các vùng biển như một thực thể thống nhất. Trên cơ sở kết luận không một cấu trúc nào mà Trung Quốc yêu sách có khả năng tạo ra vùng đặc quyền kinh tế, Toà nhận thấy Tòa có thể không cần phải phân định ranh giới biển mà vẫn có thể tuyên bố rằng một số vùng biển nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines vì không bị chồng lấn với bất cứ quyền hưởng vùng biển nào mà Trung Quốc có thể có.” (báo Người Lao Động (VN), ngày 13/07/2016)
Âm mưu khống chế
Nhưng dù bị thất bại, Trung Cộng vẫn không thừa nhận phán quyết của Tòa. Ngược lại Bắc Kinh vẫn tiếp tục có hành động đe dọa các nước nhỏ, trong đó có Việt Nam, với hy vọng khống chế toàn bộ Biển Đông bằng võ lực.
Những Điều quan trọng dưới đây của dự Luật Hải cảnh, theo Bản dịch của Dự án Đại Sự Ký Biển Đông, đã chứng minh tham vọng của Bắc Kinh (2):
Trước hết, Điều 2 quy định: “Cơ quan Hải cảnh là lực lượng vũ trang quan trọng trên biển và lực lượng thực thi pháp luật hành chính của Nhà nước.”
Làm rõ hơn Lực lượng Hải cảnh còn có quyền kiểm soát trên không, Điều 3 viết: “Luật này được áp dụng cho cơ quan Hải cảnh khi triển khai công tác thực thi pháp luật, bảo vệ quyền lợi trên biển và trên không tại các vùng biển thuộc quyền tài phán của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa.”
Nhưng chi tiết hơn thì Điều 11 đã minh thị: “Cơ quan Hải cảnh thực hiện các chức năng nhiệm vụ dưới đây theo pháp luật:

1. Phụ trách triển khai tuần tra, cảnh giới trên biển; trực ban canh giữ các đảo, đá trọng yếu trong vùng biển thuộc quyền tài phán của Trung Quốc; quản lý bảo vệ đường phân định ranh giới trên biển; phòng ngừa, ngăn chặn, loại bỏ các hành vi gây nguy hại đến chủ quyền, an ninh và quyền lợi biển quốc gia. 

2. Phụ trách bảo đảm an toàn cho các mục tiêu trọng yếu và các hoạt động lớn trên biển; áp dụng biện pháp cần thiết để bảo vệ các đảo, đá trọng yếu cũng như bảo đảm an toàn cho cho các đảo nhân tạo, trang thiết bị và cấu trúc nằm trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Trung Quốc.

3. Phụ trách công tác quản lý và bảo vệ trật tự trị an trên biển, kiểm tra xử lý các hành vi vi phạm các quy định pháp luật về quản lý trật tự trị an, xuất nhập cảnh trên biển; ngăn chặn và xử lý hoạt động khủng bố trên biển, duy trì trật tự trị an trên biển.

4. Phụ trách tiến hành kiểm tra phương tiện vận tải, hàng hóa, vật phẩm có dấu hiệu buôn lậu trên biển; kiểm tra xử lý các hành vi buôn lậu trên biển.

5. Phụ trách kiểm tra, giám sát trong phạm vi chức năng và nhiệm vụ của mình đối với việc sử dụng vùng biển, bảo vệ hải đảo và khai thác sử dụng hải đảo không có người ở, thăm dò khai thác tài nguyên khoáng sản biển, trải đặt và bảo vệ đường dây cáp, đường ống dưới đáy biển, điều tra đo đạc biển, đo vẽ cơ bản bản đồ biển, nghiên cứu khoa học biển có liên quan yếu tố nước ngoài; kiểm tra xử lý các hành vi vi phạm pháp luật.….”
Kiểm soát thuyền – tầu
Trong lĩnh vực “Bảo vệ an ninh trên Biển”, Dự Luật này viết như sau:
ĐIỀU 13

ĐIỀU 14

Với các tàu thuyền ngoại quốc đi vào nội thuỷ, lãnh hải trái phép, cơ quan Hải cảnh có quyền và trách nhiệm yêu cầu tàu thuyền đó lập tức rời khỏi hoặc áp dụng các biện pháp như tạm giữ, xua đuổi, và cưỡng chế lai kéo.

ĐIỀU 15

Do nhu cầu chấp hành nhiệm vụ bảo vệ an toàn trên biển, nhân viên cơ quan Hải cảnh có thể tiến hành lên tàu, kiểm tra đối với các tàu thuyền đi lại, dừng đậu, tác nghiệp trong vùng biển thuộc quyền tài phán của Trung Quốc.

…Đối với các tàu thuyền từ chối phối hợp kiểm tra, cơ quan Hải cảnh có thể cưỡng chế kiểm tra; các tàu thuyền bỏ chạy khỏi hiện trường, cơ quan Hải cảnh có thể áp dụng các biện pháp cần thiết để tiến hành ngăn chặn, truy đuổi…”

Gay gắt hơn, Điều 16 của Dự luật cho phép :”Cơ quan Hải cảnh có thể áp dụng các biện pháp sau để xử lý các yêu cầu cấp thiết trong các sự kiện đột xuất phát sinh trên biển: 

1. Ra lệnh cho tàu thuyền dừng di chuyển, dừng tác nghiệp.

2. Ra lệnh cho tàu thuyền thay đổi hành trình hoặc đi tới các địa điểm được chỉ định.

3. Ra lệnh cho nhân viên trên tàu thuyền rời khỏi tàu thuyền hoặc hạn chế, cấm nhân viên lên, xuống tàu thuyền.

4. Ra lệnh cho tàu thuyền dỡ hàng hoá hoặc hạn chế, cấm tàu thuyền dỡ hàng hoá.
Xây dựng và võ lực
Dự luật này không minh thị quy định về hoạt động thiết kế và đặt các giàn khoan dầu hay tìm kiếm khí đốt trên biển của các nước trong khu vực Biển Đông và Biển Hoa Đông, nhưng ai đọc cũng hiểu Trung Cộng đã ngăn cấm tuyệt đối, khi chưa có phép của họ, như ghi trong Điều 17 nguyên văn như sau:
“Đối với các tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài khi xây dựng công trình kiến trúc, cấu trúc hoặc lắp đặt các loại thiết bị cố định hoặc thả nổi trong vùng biển thuộc quyền tài phán của Trung Quốc mà chưa được các cơ quan chủ quản Trung Quốc phê chuẩn, cơ quan Hải cảnh có quyền và trách nhiệm yêu cầu dừng các hoạt động vi phạm pháp luật hoặc điều chỉnh, thay đổi hành vi có (hoặc không có) thời hạn; đối với các tổ chức, cá nhân từ chối dừng hoạt động vi phạm hoặc từ chối điều chỉnh, thay đổi hành vi có (hoặc không có) thời hạn, khi cần thiết, cơ quan Hải cảnh có thể cưỡng chế dỡ bỏ theo pháp luật.”
Đới với hoạt động của các tầu thuyền Quân sự và của chính phủ nước ngoài, Điều 18 của Dự luật ấn định: “Đối với tàu thuyền quân sự nước ngoài và tàu thuyền chính phủ nước ngoài hoạt động phi thương mại trong vùng biển thuộc quyền tài phán Trung Quốc mà có hành vi vi phạm quy định pháp luật Trung Quốc, cơ quan Hải cảnh có quyền áp dụng các biện pháp cảnh giới hoặc kiểm soát cần thiết để ngăn chặn, ra lệnh cho tàu thuyền đó lập tức rời khỏi vùng biển liên quan; đối với các tàu thuyền kiên quyết không rời đi, gây ra nguy hại hoặc uy hiếp nghiêm trọng, cơ quan Hải cảnh có quyền áp dụng các biện pháp như xua đuổi hoặc cưỡng chế lai kéo.” 
Nếu chỉ có bấy nhiêu thì Dự luật Hải cảnh chỉ hợp thức hóa những hành động bấy lâu nay của Trung Cộng ở Biển Đông.
Vũ khí và vũ khí
Nhưng điểm quan trọng và nguy hiểm nhất của Dự luật Hải cảnh mới là nhà nước Trung Cộng đã cho phép Lực lượng Hải cảnh được sử dụng mọi loại vũ khí khi cần thiết để bảo vệ an ninh và quyền lợi trên biển.
Nguyên văn của Điều 19 viết thế này: “Khi chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Trung Quốc trên biển bị các tổ chức, cá nhân nước ngoài xâm phạm bất hợp pháp, hoặc đang đối mặt với nguy hiểm cấp bách bị xâm phạm bất hợp pháp, cơ quan Hải cảnh có quyền áp dụng tất cả các biện pháp cần thiết, bao gồm sử dụng vũ khí để ngăn chặn việc xâm hại, loại trừ nguy hiểm theo các quy định của Luật này hoặc các bộ luật, quy định khác liên quan.”
Khi cho phép dùng vũ khí để dành chủ quyền trên biển, Trung Cộng đã bất chấp luật pháp quốc tế và vi phạm Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển năm 1982. Chiến tranh có thể xẩy ra vì Bắc Kinh đã sử dụng võ lực để cưỡng chế quyền chủ quyền và chủ quyền của nước khác, hay đang có tranh chấp với Trung Cộng, ở Biển Đông và biển Hoa Đông.
Ngoài Điều 19, việc sử dụng vũ khí theo nhu cầu trên biển còn được cho phép trong các Điều ghi sau:
Điều 43: “Khi xảy ra một trong các trường hợp sau đây nếu cảnh cáo không có tác dụng, nhân viên hải cảnh có thể sử dụng vũ khí cầm tay khi: 

1. Có chứng cứ cho thấy tàu thuyền chở nghi phạm hoặc vận chuyển trái phép vũ khí, đạn dược, tài liệu mật nhà nước, ma túy và những vật phẩm trái phép khác, mà cố tình bỏ trốn sau khi hải cảnh ra lệnh dừng lại.

2. Tàu thuyền nước ngoài sản xuất, hoạt động trái phép trong vùng biển thuộc quyền tài phán của Trung Quốc không chấp hành hiệu lệnh của hải cảnh về việc dừng tàu, lên kiểm tra, mặc dù Hải cảnh đã sử dụng biện pháp khác nhưng không đủ để ngăn chặn hành vi trái phép. 
Điều 44 còn mở rộng hơn, khi viết rằng: “Ngoài vũ khí cầm tay, hải cảnh có thể sử dụng tàu thuyền hoặc vũ khí trang bị trên tàu khi xảy ra một trong các trường hợp sau:

1. Thực hiện nhiệm vụ chống khủng bố trên biển.

2. Xử lý vụ việc bạo lực nghiêm trọng trên biển.

3. Phương tiện tàu thuyền, thiết bị bay của hải cảnh bị tấn công bằng vũ khí hoặc hình thức nguy hiểm khác.” 
Điều 45 còn thả lỏng hơn: “Khi sử dụng vũ khí theo pháp luật, nhân viên hải cảnh có thể sử dụng lập tức trong trường hợp không kịp cảnh báo hoặc sau khi cảnh cáo có thể dẫn đến hậu quả nghiêm trọng hơn.”
Điều 46 còn căn dặn: “Nhân viên hải cảnh căn cứ vào mức độ cấp bách, tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội và hành vi của người phạm tội, phán đoán hợp lý về mức độ cần thiết của việc dụng vũ khí, tránh và hạn chế tối đa việc gây tổn thất về người và tài sản; khi sử dụng vũ khí với tàu thuyền, cần tránh tối đa việc bắn vào vị trí dưới đường nước (thuỷ tuyến).”
Quyền tài phán ở đâu?
Vậy điều mà Trung Cộng tự cho thuộc “quyền tài phán” (3) của mình trên biển, nhưng thực tế phần lớn thuộc chủ quyền và quyền chủ quyền của các nước khác, bao gồm những vùng nào?
Việc này Dự luật quy định trong Điều 74, theo đó: “Vùng biển thuộc quyền tài phán của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa bao gồm: lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa cũng như các vùng biển khác thuộc quyền tài phán của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Nội thủy là vùng nước bên trong đường cơ sở lãnh hải về phía đất liền của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, trong đó bao gồm vịnh và khu vực cửa sông.”
VN phản ứng yếu ớt
Trước tham vọng bá quyền và thực dân rõ như ban ngày của Trung Cộng như vậy, phía Đảng và Nhà nước Cộng sản Việt Nam đã nói gì?
Hãy nghe người Phát ngôn của Bộ Ngoại Giao phản ứng tại cuộc họp báo ngày 05-11-2020, theo tường thuật của báo Người Lao Động:
“Tại buổi họp báo thường kỳ của Bộ Ngoại giao chiều 5-11, phóng viên nêu câu hỏi đề nghị cho biết bình luận của Việt Nam về việc hôm qua Trung Quốc vừa xem xét lại dự luật cho phép Cảnh sát biển Trung Quốc sử dụng vũ khí trong vùng lãnh hải của Trung Quốc.

Phó Phát ngôn Bộ Ngoại giao Dương Hoài Nam nhấn mạnh như đã nhiều lần khẳng định, Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử để khẳng định chủ quyền của mình đối với hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Việt Nam luôn ủng hộ giải quyết các tranh chấp thông qua thương lượng hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982.”
Câu nói của Dương Hoài Nam chỉ lập lại điều phía Việt Nam đã nói đi nói lại nhiều lần, trong nhiều năm mỗi khi vấn đề chủ quyền ở Biển Đông của Việt Nam bị Trung Cộng vi phạm. Ngoài ra Việt Nam Cộng sản đã kiềm chế đến mức thấp nhất của ngôn ngữ Ngoại giao đề tránh gây bất bình với Bắc Kinh, nói chi đến hành động mạnh phản ảnh ý chí và bản lĩnh của một nước độc lập có chủ quyền.
Đó là lý do tại sao Lãnh đạo Việt Nam đã tránh tối đa chỉ trích Trung Cộng về Luật Hải cảnh, dù biết đó là cái thòng lọng đang chờ treo cổ Việt Nam ở Biển Đông. -/-
Chú thích:
(1) Quần đảo Senkaku (Điếu Ngư) là một nhóm gồm các đảo không người ở do Nhật Bản kiểm soát ở biển Hoa Đông. Các đảo nằm về phía đông của Trung Quốc đại lục, về phía đông bắc của Đài Loan, về phía tây của đảo Okinawa, và ở phía bắc cực tây nam của quần đảo Ryukyu (đảo Yonaguni).
Từ khi Hoa Kỳ trao quyền quản lý các đảo cho Nhật Bản năm 1971, quyền sở hữu các đảo bị tranh chấp giữa Nhật Bản với Cộng hòa Nhân dân Trung HoaTrung Hoa Dân Quốc (Đài Loan). Trung Quốc tuyên bố rằng họ đã phát hiện và kiểm soát các đảo từ thế kỷ 14. Nhật Bản đã kiểm soát các đảo từ năm 1895 cho đến khi đầu hàng kết thúc Chiến tranh thế giới thứ hai. Hoa Kỳ quản lý quần đảo như là một phần của Chính quyền dân sự Hoa Kỳ tại quần đảo Ryukyu từ năm 1945 đến năm 1972, khi chúng được trao cho Nhật Bản theo Hiệp ước trao trả Okinawa giữa Hoa Kỳ và Nhật Bản. (theo Bách khoa Toàn thư mở)
(2) Dự án Đại Sự Ký Biển Đông: Do một số Trí thức trong và ngoài nước thành lập từ năm 2015 nhằm nghiên cứu về Tình hình Biển Đông.
Đứng đầu bởi PGS.TS Nguyễn Hồng Thao,chuyên ngành luật quốc tế tại ĐHQG Hà Nội và Học viện ngoại giao Việt Nam.
(3) Quyền tài phán là thẩm quyền riêng biệt của quốc gia ven biển được quy định, cấp phép, giải quyết và xử lý đối với một số loại hình hoạt động, các đảo nhân tạo, thiết bị và công trình trên biển, trong đó có việc lắp đặt và sử dụng các đảo nhân tạo các thiết bị và công trình; nghiên cứu khoa học về biển; bảo vệ và gìn giữ môi trường biển trong vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa của quốc gia đó. (Theo Tài liệu Biên giới lãnh thổ của Việt Nam)
(01/021)


Dị tật

– Đã gần chín giờ, vậy mà trời vẫn còn mù sương. Cái rét kéo dài từ lễ Giáng sinh vắt qua tháng ba, vẫn như những mũi kim chích vào da thịt người. Lác đác vẫn còn những chiếc xe hàng đến muộn bật cả đèn gầm, lẫn pha vén màn sương lầm lũi vào sân. Chợ trời tuần họp một buổi bắt đầu nhộn nhịp, làm cái thị trấn miền núi này chợt tỉnh giấc. Tôi dựng ô, và bày hàng xong, vừa hơ hai bàn tay lạnh cứng vào cái lò sưởi Gas, chợt có tiếng chân người rượt đuổi nhau vòng sau lưng. Tôi ngơ ngác đứng dậy, thì nghe tiếng chửi:

– Đ.m, cái thằng tinh trùng dị tật.
Một câu chửi tục tĩu, ác khẩu, nhưng lắng lại một giây thấy hài hài lạ lạ, làm tôi bật cười. Dường như đó là tiếng chửi của Hoa kều vợ Tăng lùn, tôi vội chạy đến. Thấy Hoa kều cầm cái tay ô dài bằng sắt dí thẳng vào bụng Tăng lùn, làm cho thân hình lẻo khoẻo của gã dính đét vào chân cầu. Tăng lùn mặt xanh như đít nhái, nhưng cổ vẫn gân lên như cãi cọ, hay thanh minh điều gì đó. Thấy vậy, tôi kéo Hoa kều ra, và bảo:
-Có gì về nhà vợ chồng bảo nhau. Ầm ĩ ở đây ngượng chết đi được. Tây nó gọi cảnh sát, giấy tờ lởm khởm thì rách việc lắm.
Hoa kều chợt tỉnh, vứt toẹt cái tay ô xuống đất, rồi úp mặt vào chân cầu khóc. Tăng lùn vội cúi xuống nhặt chiếc tay ô, và lủi nhanh về gian hàng của mình. Lúc sau, Hoa kều quay lại chỗ tôi, hai mắt đỏ hoe, tuy ngập ngừng, giảm nhiệt, nhưng có lẽ vẫn chưa nuốt trôi được cục ấm ức:
– Bác xem, có một thằng con bị (bệnh) bại não, em đã khổ lắm rồi. Gần đây, lão ấy còn mồi chài, xí xớn với một con tị nạn từ Nga sang, lại đẻ ra một thằng vị kỷ, bất bình thường nữa, em đã nhắm mắt bỏ qua. Lần này, lão ấy lấy hết tiền tiết kiệm, tiền hàng của em nướng vào cờ bạc, vào Automat. Bác bảo, làm sao em có thể tiếp tục sống…
Một ca thât khó chia sẻ và đồng cảm, nhất là nơi nhộn nhạo chợ búa này, tôi đành an ủi:
-Sự việc đã xảy ra rồi, bây giờ có ầm ĩ cũng không giải quyết được gì. Em cứ về bán hàng, chiều tối nay anh sẽ chuyện trò với Tăng.
Hoa kều quả quyết:
-Hết thuốc chữa rồi. Bác khỏi cần chuyện trò với lão ấy, mất thời gian. Em sẽ cho lão ấy đi luôn…
Tăng lùn nguyên là bộ đội đảng viên, xuất ngũ được sung vào đội quân cày thuê quốc mướn ở Limbach-Oberfrohna. Tôi quen biết Tăng lùn vào thập niên tám mươi của thế kỷ trước. Khi hắn thường xuyên đến chỗ tôi xin tiết canh, cổ hũ. Trông cũ cũ người như vậy, không hiểu bằng cách nào, Tăng lùn bắn đổ em Hoa to cao, xinh đẹp ra phết ở một đội thuộc khu vực Dresden. Nhìn cái dáng loắt choắt của hắn đứng cạnh Hoa kều chẳng khác gì đôi đũa lệch.
Sau khi bức tường Berlin sụp đổ, nước Đức thống nhất, vợ chồng hắn nhận tiền đền bù, cùng dắt nhau về nước. Với cái khoản ngoại tệ, cùng hàng hóa mang về vào thời điểm ấy, tầm tuổi vợ chông Tăng lùn được xếp vào hạng có chút máu mặt. Vừa nộp giấy sinh hoạt cho đảng ủy phường, đồng chí bí thư hồ hởi, bá vai vít cổ rỉ tai:
-Đồng chí còn trẻ, từng là quân nhân, và đã có những năm tháng công tác, học tập ở nước ngoài có kinh nghiệm, năng lực. Đồng chí nên hợp thức hóa bằng cấp sẽ là cán bộ nguồn đấy.
Chân ướt chân ráo, còn đang lớ ngớ, nghe đồng chí bí thư rỉ tai, Tăng lùn thật thà:
-Báo cáo bác, ở Đức suốt ngày em cắm đầu vào may vá, chạy chợ kiếm tiền, học hành quái gì đâu mà có bằng cấp…
Chưa nói hết câu, đồng chí bí thư đã bịt mồm hắn, kéo thốc ra hàng bia hơi của phường:
-Bậy…bậy nào, chưa có thì về đây phải học, phải tìm kiếm bổ sung cho đầy đủ chớ.
Nốc cạn vại bia đồng chí bí thư vừa đẩy sang, Tăng lùn gãi đầu, gãi tai:
-Báo cáo bác, thế thì khó lắm ạ.
Đồng chí bí thư nhổm đít, chõ về phía hắn, vê vê hai ngón tay:
-Của nội, hay bằng cấp, chứng chỉ của ngoại có tuốt, nếu đủ cơ số đạn dược.
Thấy hắn ý chí yếu xìu, lưỡng lự, đồng chí bí thư ngoắc tay một em bồi xinh tươi đang ngúng nguẩy ở bàn bên mang thêm bia và mồi nhậu. Rượu vào lời ra, đúng là tình đồng chí, lòng tin được nâng lên một cách rõ rệt. Đến chiều tối, lời đồng chí bí thư làm Tăng lùn tâm đắc, và thấy có lý lắm. Nó cứ như kim chỉ nam cho hành động vậy.
Thế là, chỉ trong vòng có mấy tháng hắn đã có (đầy đủ) bằng cấp đại học, và chứng chỉ tốt nghiệp trung cấp lý luận chính trị. Sau khi, được đồng chí bí thư đưa về làm địa chính phường, rồi được đôn lên quận, thì vợ chồng hắn (trần như nhộng) chỉ còn chiếc xe gắn máy cà tàng. Hoa kều vợ hắn lúc đầu còn hăng tiết vịt, nhưng đột nhiên thấy trắng tay, phía trước mù mịt, đâm phát hoảng. Nửa đêm gần sáng Hoa kều cứ giật mình thon thót. Dẫn đến lời nói, bóng gió ra vào làm cho Tăng lùn sốt hết cả ruột. Tuy nhiên, hắn trấn an ngay: Cờ bạc ăn nhau về sáng, làm quái gì mà cứ nhặng cả lên…
Rồi lần đầu đi thẩm tra xác định nguồn gốc đất cho một công ty trên địa bàn quận, nhận được phong bì lại quả dày cộm, toàn ngoại tệ mạnh, mắt Tăng lùn sáng rực lên, mang về chia nhau. Nhiều lúc khoái chí, không kìm được sự sung sướng, hắn vỗ đùi đen đét, rồi lại tủm tỉm: Có thế chứ, từ nay có thể yên tâm hồi vốn rồi.
Tiền bạc cứ vô đều đều, chưa đến một năm, vợ chồng Tăng lùn đã tính đến chuyện mua nhà, mua đất để làm vốn. Đang ngon lành, sáng trưa chiều tối rượu bia ngất ngưởng đi về, thì đánh độp một phát bộ phận địa chính của hắn bị thanh tra đến móc họng. Giấy tờ, biên bản thẩm định, đo đạc đất đai nhà cửa sai lệch đều do hắn trực tiếp làm. Các đồng chí lãnh đạo nuốt nhiều nhất, song đều ngoảnh mặt quay lưng cả. Vậy là, hắn phải làm vật tế thần. Để đổi lấy sự bình yên, bao phong bao, tiền bạc tích cóp bấy nay, vợ chồng hắn đều phải nôn thốc nôn tháo ra cả, rồi trở về với cái máng lợn của mình. Tuy tránh được sự giam giữ, tù đày, song trong lòng vợ chồng hắn luôn gằn lên những cơn sóng.
Đang bế tắc và buồn chán, có mấy gã bạn cùng cảnh cày thuê cuốc mướn ở Đức trước đây tìm đến, vỗ vai:
– Có đường dây vượt biên sang Đức, đi cùng hay không?
Đúng là chết đuối vớ được cọc, một sự giải thoát duy nhất, do vậy dù đèo thêm thằng con bị bại não, vợ chồng Tăng lùn cũng quyết định ra đi. Vay mượn khắp nơi, rồi vợ chồng hắn cũng đủ tiền nộp cho bọn dẫn đường, đội lốt công ty du lịch. Chuyến đi gian khổ, dài ngày, rồi gia đình hắn cũng đến đích. Sang Đức lần này, vợ chồng hắn thuận lợi hơn người khác, bởi còn nhiều bạn bè cũ làm chỗ dựa. Vào trại tị nạn một thời gian ngắn, vợ chồng hắn được mấy người bạn cho mượn giấy phép (Reisegewerbekarte) và vốn liếng, hành nghề bán hàng rong ở các chợ trời. Vật vã mấy năm trời, rồi vợ chồng hắn cũng trả hết nợ nần, mua sắm xe pháo, và đã có của ăn của để…
Tạm ổn định và có chút tiền, Tăng lùn đâm rửng mỡ, đi vào con đường gái gú, cờ bạc. Dẫn đến vợ chồng ly dị. Tiền hết, tình tan, hắn dạt về Dresden theo cô, theo cậu, lập am thờ tự. Từ đây, hắn qui tụ được khá nhiều con nhang đệ tử phần đông là các bà sồn sồn, lại cái. Cứ tưởng Tăng lùn đã tĩnh tâm nhang đèn, nhưng không, cái khoản đảng đoàn thì thụp họp hành, hắn không thể từ bỏ. Năm 1996, nghe nói, Tăng lùn can tội lừa đảo, hay chỉ điểm gì đó, bị băng bảo kê thuốc lá lậu lôi ra sông Elbe, định cho đi mò tôm, nhưng hắn còn tốt số lắm, chỉ bị đập gãy chân. Thoát chết, hắn buộc phải bỏ hết con nhang, đệ tử chuồn sang Tiệp…
Kể từ đó, mấy chục năm tôi không gặp lại Tăng lùn. Và hình ảnh hắn dường như cũng còn rất mờ nhạt trong ký ức tôi, với những đêm trằn trọc ở cái tuổi bên kia của con dốc. Cho đến hè mấy năm trước, tôi chở nhà thơ Trần Mạnh Hảo sang Tiệp và vào chợ Sapa ở Praha. Đang ngồi bia hơi với nhà văn Trần Ngọc Tuấn ở Hồ Sen Quán, thấy có gã nhỏ thó, nom quen quen, ăn mặc sặc sỡ chẳng khác đám ca sĩ nửa mùa, đi ngang. Không thể nhớ ra, nên tôi chỉ tay hỏi Trần Ngọc Tuấn:
-Bác có biết cha kia không?
Trần Ngọc Tuấn cười cười:
-Tăng lùn, hình như gã này, hay tổ chức các hội hè, hoa hậu, cưới xin, ca nhạc gì đó… Biết, nhưng không quen, không thân. Cố nhân hả?
Ký ức chợt thức dậy, (vâng) đúng Tăng lùn, nên tôi bảo Trần Ngọc Tuấn:
-Cũng có nhiều kỷ niệm với gã này, từ cái ngày cùng cày thuê cuốc mướn, và bán hàng rong ở Đức của mấy chục năm về trước.
Nói xong, tôi đứng dậy gọi với, làm Tăng lùn đứng khựng lại. Dụi mắt, dụi mũi mấy lần, rồi Tăng lùn cũng nhận ra tôi. Ngạc nhiên, vui vẻ ôm nhau có vẻ thắm thiết lắm. Định kéo hắn vào cùng khật khừ cho vui, nhưng hắn bảo, có chút việc nhanh thôi, xong sẽ quay lại ngay, và đưa về nhà chơi cho biết. Cứ ngỡ, Tăng lùn nói xã giao, không ngờ lúc sau hắn quay lại thật. Hắn mời bằng được tôi về nhà. Không thể từ chối, nên tôi dặn bác Trần Mạnh Hảo cứ thơ phú thoải với các độc giả, fan hâm mộ, sẽ quay về ngay.
Nhà Tăng lùn cách chợ Sapa có vài con phố. Căn nhà nhỏ, nhưng sạch sẽ, trên tường treo đầy tranh ảnh to tổ bố hắn ôm vai, bá cổ toàn những: Nguyễn Ngọc Ngạn, Kỳ Duyên, Chí Tài, hay Thanh Hoa, Tùng Dương, Phú Quang… Thấy tôi đưa mắt nhìn quanh, hiểu ý, hắn bảo: Có hai bà, nhưng ở chỗ khác, một mình cho tự do, thoải mái ông ạ. Tôi cười, ông có số đào hoa nhỉ? Không trả lời tôi, nhưng mắt hắn chùng xuống, như che giấu một cái gì đó. Chuyện trò mới biết nỗi gian truân của hắn từ ngày buộc phải rời khỏi Đức, đến nay cũng đã tàm tạm, kiếm ăn được, nhưng thị phi cũng còn không ít. Đang hào hứng, thì có bà sồn sồn, mặt mũi sắc cạnh như vừa qua công đoạn đẽo gọt, mông tút, với đôi chân cố khép lại, nhưng vẫn còn dáng hình chữ bát bước vào, cắt ngang câu chuyện của hắn. Tôi vội đứng dậy từ biệt. Hắn tiễn tôi ra xe. Tôi hỏi: Bà xã đấy à? Hắn cười: Thí sinh đăng ký thi hoa hậu đấy. Tôi hơi bị giật mình: Chỉ được cái bốc phét. Hắn bảo: Đùa với ông làm đếch gì. Thấy mặt tôi đần đần, ngẫn ngẫn, hắn liền ghé tai: Tiền nhiều, tự nhiên sẽ đẹp lên thôi. Hình dáng, chân dung của hoa hậu kỳ này đấy…
Tôi quay lại chợ Sapa, gặp ngay Tiền Phương cựu du học sinh, người Bắc Ninh. Hắn hỏi, anh biến đâu, em tìm từ nãy đến giờ. Em mua mấy cân gan nướng, tý nữa anh mang về cho bác Nam Võ, và Bình Thu nhé. Tôi bảo, vừa đến nhà Tăng lùn. Tiền Phương thở dài:
Mấy tháng nay, tôi nghe nói, Tăng lùn bị bệnh gì quái đản lắm. Nó tựa như cái bệnh giang mai ở quê nhà, nhưng không phải vậy. Các bác sĩ Tiệp, Hung, Đức khám, điều trị mãi mà chẳng khỏi. Chân của hắn kỳ này vạt ra như hai mái chèo, Có kẻ thối mồm, thối miệng còn gọi đểu: Kiểu đi chàng hảng. Hai bà vợ của hắn đều đổi tính, thay nết, không còn chèo kéo hắn như trước nữa. Ăn ngủ ở đâu cũng mặc xác hắn. Nghĩ cũng tội…
Tôi cũng định kết thúc câu chuyện ở đây, nhưng có ông hàng xóm sang chơi, ghé mắt đọc, rồi cười cười, lấp lửng hỏi: Chuyện này thấy quen quen hình như đã nghe ở đâu đó rồi thì phải?. Tôi bảo: Ông nhầm nhọt thế nào ấy chứ. Ở Đức, ở Tiệp làm chó gì có ai là Tăng lùn, với những kiểu bán mua giải thưởng ca sĩ, hoa hậu, ứ hậu vớ vỉn như vậy. Truyện tôi bốc phét, viết ra đọc cho vui thôi…
Leipzig ngày 7-1-2021

Đỗ Trường


Tuyên bố của Hội Nhà Báo Độc Lập Việt Nam về việc: Nhà cầm quyền Việt Nam kết án thành viên HNBĐLVN.

Ngày 05 tháng 01 năm 2021, Tòa án Tp Hồ Chí Minh đã tổ chức cái gọi là “Phiên tòa sơ thẩm” để xét xử ba thành viên của Hội Nhà Báo Độc Lập Việt Nam (HNBĐLVN) theo Điều 117 của Bộ luật Hình sự về cáo buộc “Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
Ba thành viên của Hội Nhà Báo Độc Lập Việt Nam bị nhà cầm quyền Việt Nam kết án với mức án như sau:
Tiến sĩ Phạm Chí Dũng, Chủ tịch Hội NBĐLVN, 15 năm tù, 3 năm quản chế.
Ông Nguyễn Tường Thụy, Phó Chủ tịch HNBĐLVN, 11 năm tù và 3 năm quản chế.
Ông Lê Hữu Minh Tuấn, Biên tập viên Vietnamthoibao.org, 11 năm tù và 3 năm quản chế.
Trước đó, nhà cầm quyền Việt Nam đã bắt giam ông Phạm Chí Dũng, Nguyễn Tường Thụy, Lê Hữu Minh Tuấn vào biệt giam một thời gian dài không cho tiếp xúc với các luật sư bào chữa hoặc thân nhân. Họ chỉ được gặp các luật sư của mình một thời gian rất ngắn trước khi xét xử và trong khi xét xử, tòa đã bỏ qua những lời biện hộ đúng đắn, phù hợp pháp luật của các luật sư cũng như những người này để kết án một cách bất công.
Phiên tòa không được tiến hành công khai, rất chóng vánh với những bản án nặng nề này nhằm trả thù hèn hạ những tiếng nói yêu dân chủ, tự do, hòa bình và vì sự tồn vong của đất nước, của dân tộc và vì nỗi đau của người dân dưới chế độ độc tài.
Nhận định rằng:
Hội nhà báo độc lập Việt Nam, là một tổ chức xã hội dân sự nghề nghiệp được thành lập và hoạt động dựa trên Điều 25 Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình”.
Những hoạt động của HNBĐLVN kể từ khi thành lập đến nay, hoàn toàn căn cứ trên cơ sở về quyền tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do báo chí và tự do lập hội mà nhà nước Việt Nam đã cam kết với cộng đồng quốc tế.
Việc nhà cầm quyền Việt Nam bắt giữ, giam cầm và tuyên những bản án nặng nề, ác ý đối với các thành viên HNBĐLVN, đồng thời tiến hành sách nhiễu đồng loạt các thành viên trong HNBĐLVN và nhiều công dân Việt Nam khác trong thời gian vừa qua, một lần nữa, chứng tỏ rằng: Nhà cầm quyền Việt Nam đã đi ngược lại Hiến pháp và luật pháp do chính họ đưa ra.
Những hành động này của nhà cầm quyền Việt Nam, đi ngược lại những tuyên bố của họ, không chấp nhận những phản biện ôn hòa của HNBĐLVN cũng như người dân Việt Nam.
Điều này, xâm phạm nghiêm trọng quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do lập hội mà Nhà nước Việt Nam đã cam kết trong Luật Điều Ước Quốc Tế, đã được Quốc hội nước Cộng hòa XHCNVN khóa XIII, kỳ họp thứ 11 thông qua ngày 09/4/2016.
Việc gia tăng đàn áp các tổ chức Xã hội dân sự tại Việt Nam, trong đó có HNBĐLVN cho thấy nhà cầm quyền Việt Nam đã hoàn toàn không tôn trọng những cam kết của mình với các quốc gia liên quan về thực thi quyền con người tại Việt Nam.
Hội Nhà Báo Độc Lập Việt Nam tuyên bố:
Chúng tôi lên án hành vi của Nhà cầm quyền Việt Nam đã làm ngược lại Điều 25 Hiến pháp 2013.
Bằng việc bắt giữ, kết án các thành viên của HNBĐLVN, nhà cầm quyền Việt Nam đã đảo ngược hoàn toàn với các quyền tự do căn bản của công dân, cũng như những cam kết của Nhà nước Việt Nam với Công ước Dân sự – Chính trị và cam kết nhân quyền của Việt Nam. Hành vi này đi ngược lại xu thế tiến bộ, văn minh của xã hội loài người trong việc thực thi các giá trị phổ quát con người đưa đất nước đến sự văn minh, đạo đức và thịnh vượng và là hành vi không thể chấp nhận được.
Trong bối cảnh cả đất nước đang đứng trước sự xâm lăng của các thế lực bành trướng Phương Bắc, hành vi này là sự thể hiện thái độ tiếp tay cho các thế lực bành trướng xâm lược lãnh thổ Việt Nam.
Trong bối cảnh đời sống nhân dân đang hết sức khó khăn cần một sự đồng sức, đồng lòng của mọi người dân, mọi tổ chức, tầng lớp xã hội để vượt qua, đây hành vi đi ngược lại những việc cần làm nhằm cho xã hội ổn định, tiến bộ và phát triển.
Trong bối cảnh cả thế giới đang chứng kiến những sự tụt hậu, lên án các chế độ độc tài kìm hãm sự tiến bộ của các dân tộc, việc nhà cầm quyền Việt Nam đang tiến hành với HNBĐLVN chứng tỏ sự độc tài của nhà cầm quyền Việt Nam ngày càng gia tăng. Điều này, càng tạo thêm sự xa lánh của thế giới văn minh đối với Việt Nam.
Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam nghiêm khắc yêu cầu nhà cầm quyền Việt Nam ngay lập tức hủy các bản án, xoá bỏ mọi cáo buộc vô lý, các bản án ác ý nhằm trả thù và trả tự do vô điều kiện cho các thành viên của HNBĐLVN cũng như hàng trăm tù nhân lương tâm đang bị cầm tù chỉ vì thực thi các quyền cơ bản của công dân một cách ôn hòa.
Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam, sẽ tiếp tục hoạt động dựa trên tôn chỉ, mục tiêu thành lập Hội nhà báo độc lập, nhấn mạnh đối thoại, phản biện ôn hòa để đưa đất nước, dân tộc đi lên văn minh, hiện đại.
Chúng tôi kêu gọi sự đoàn kết của các thành viên trong Hội NBĐLVN trước thử thách to lớn này để vượt qua bất cứ khó khăn nào, nhằm thực hiện quyền của công dân, quyền con người đang bị tước đoạt, qua đó, đấu tranh cho một nước Việt Nam văn minh, thịnh vượng và phát triển.
Chúng tôi kêu gọi mọi người dân Việt Nam, ý thức một cách rõ ràng về quyền công dân của mình, đặc biệt là những quyền cơ bản như tự do tư tưởng, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do lập hội… hiện đang bị xâm hại hết sức nghiêm trọng, cần sự đoàn kết, đấu tranh ôn hòa cho quyền được làm người của mình. Qua đó, ủng hộ HNBĐLVN ngày càng phát triển.
Chúng tôi kêu gọi cộng đồng quốc tế, các tổ chức Quốc tế, các tổ chức Xã hội dân sự, đặc biệt là những quốc gia đã tham gia những công ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết, các quốc gia liên quan… cần có những hành động thiết thực hơn đối với Nhà cầm quyền Việt Nam trong việc yêu cầu nhà cầm quyền Việt Nam tôn trọng quyền con người của công dân, tôn trọng và thực hiện các cam kết mà họ đã long trọng ký kết.
Ngày 05/01/2021
HỘI NHÀ BÁO ĐỘC LẬP VIỆT NAM
T.M BAN LÃNH ĐẠO HỘI NBĐLVN
Quyền Chủ tịch
J.B Nguyễn Hữu Vinh