Lưu trữ danh mục: tin tức

Tuyên bố chung của Mạng lưới Nhân quyền Việt Nam, Người Bảo vệ Nhân quyền Việt Nam, và Tổ Chức Yểm Trợ Nhân Quyền về việc CSVN kết án 3 thành viên Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam

Thông cáo Báo Chí


Ngày 6/01/2021
Ngày 05/01/2021, Toà án Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã kết án 3 thành viên của Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam với tổng cộng 37 năm tù giam và 9 năm quản chế về tội danh “Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” theo Điều 117 của Bộ luật Hình sự: Chủ tịch Phạm Chí Dũng bị kết án 15 năm tù giam và 3 năm quản chế, Phó Chủ tịch Nguyễn Tường Thuỵ và thành viên trẻ Lê Hữu Minh Tuấn cùng bị 11 năm tù giam và 3 năm quản chế. 

Đây là một phiên toà bất công không tuân theo chuẩn mực quốc tế về xét xử công bằng: Việc kết án được tiến hành sau nhiều tháng biệt giam 3 ông kể từ khi bắt giữ họ đến tháng 12 năm 2020 khi họ được tiếp xúc lần đầu với luật sư bào chữa; và trong phiên toà kéo dài chưa tới 6 giờ, mọi lời bào chữa của luật sư và lời khai của 3 nhà báo không được toà tôn trọng. 
Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam (IJAVN) là một tổ chức xã hội dân sự nghề nghiệp của những cây bút độc lập đấu tranh đòi tự do báo chí ở Việt Nam. Kể từ khi thành lập năm 2014 đến nay, các thành viên của hội và cộng tác viên đã có hàng nghìn bài báo về tình hình đất nước, thẳng thắn chỉ trích chế độ và quan chức cộng sản về những vi phạm trắng trợn quyền con người và sai lầm nghiêm trọng trong việc quản lý đất nước. Đây chính là lý do mà nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam muốn triệt tiêu Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam và đàn áp các thành viên trong nhiều năm qua, mà việc bắt giữ và kết tội 3 ông là minh chứng tiêu biểu. 
Ba ông Phạm Chí Dũng, Nguyễn Tường Thuỵ, và Lê Hữu Minh Tuấn bị kết án với những bản án vô cùng nặng nề chỉ vì thực hiện quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hiệp hội- những quyền con người căn bản nhất ghi trong Hiến pháp Việt Nam và các công ước quốc tế về nhân quyền mà nhà nước cộng sản Việt Nam đã ký kết. 
Mạng lưới Nhân quyền Việt Nam, Người Bảo vệ Nhân quyền Việt Nam, và Tổ chức Yểm trợ Nhân quyền cho rằng ông Phạm Chí Dũng, Nguyễn Tường Thuỵ, và Lê Hữu Minh Tuấn không vi phạm luật pháp Việt Nam và việc bắt giữ, giam giữ và kết tội 3 ông là hoàn toàn bất công.
Vì thế, chúng tôi yêu cầu nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam
– Huỷ bỏ các bản án, xoá bỏ cáo buộc và trả tự do cho 3 ông ngay lập tức và vô điều kiện; 
– Ngưng ngay việc đàn áp Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam và các nhà báo độc lập và Facebooker khác, bảo đảm các quyền tự do cơ bản, đặc biệt quyền tự do ngôn luận, tự do lập hội, tự do báo chí và tiếp cận thông tin;
– Hủy bỏ Điều 117 trong phần An ninh quốc gia của Bộ luật Hình sự vốn được sử dụng để đàn áp người phản biện ôn hoà. 
Chúng tôi kêu gọi các tổ chức xã hội dân sự độc lập và cá nhân cũng như cộng đồng quốc tế cùng lên tiếng về sự tự do của 3 nhà báo độc lập vừa mới bị kết án.
-Thay mặt Mạng lưới Nhân quyền Việt Nam: TS Nguyễn Bá Tùng, Trưởng Ban Điều hành
-Thay mặt Người Bảo vệ Nhân quyền Việt Nam: Ô. Vũ Quốc Ngữ, Giám đốc
-Thay mặt Tổ chức Yểm trợ Nhân quyền: Ô. Đặng Trung Chính, Chủ tịch
Vietnam Human Rights Network
8971 Colchester Ave
Westminster, CA 92683 – USA
Tel: (714) 657-9488


Tuyên bố của Diễn Đàn Việt Nam 21về việc Toà án Cộng sản tuyên án tù đối với ba nhà báo dân chủ

Ngày 05 tháng 01 năm 2021, Hội đồng xét xử phiên toà sơ thẩm của toà án thành phố Hồ Chí Minh đã tuyên án ba nhà báo, thành viên của Hội Nhà Báo Độc Lập Việt Nam (HNBDLVN) về tội “Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam”.

Tiến sĩ Phạm Chí Dũng, Chủ tịch Hội NBĐLVN, 15 năm tù, 3 năm quản chế.
Ông Nguyễn Tường Thụy, Phó Chủ tịch HNBĐLVN, 11 năm tù và 3 năm quản chế.
Ông Lê Hữu Minh Tuấn, Biên tập viên, Việt Nam thời báo, 11 năm tù và 3 năm quản chế.
Diễn đàn Việt Nam 21 nhận định:
– Việc bắt giam ba nhà báo là độc đoán và phiên xử chớp nhoáng một ngày đã không đáp ứng quy trình pháp lý quốc tế.
– Đây là án tù nặng nhất cho tới nay đối với các nhà báo tranh đấu ôn hòa cho tự do báo chí và tự do bày tỏ ý kiến, cũng như thành lập các công đoàn tự do và độc lập.
– Việc thiết lập Tòa án nhân dân để kết án những người cầm bút là chính quyền CS đã vi phạm trắng trợn các điều khoản trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị mà Việt Nam đã cam kết tuân thủ…
– Việc các quốc gia dân chủ phương Tây ký kết thoả ước thương mại tư do với Việt Nam đã không thể thúc đẩy sự cải thiện Nhân quyền dưới chế độ độc đảng ở Viêt Nam. Theo báo cáo của tổ chức Phóng viên không Biên giới (RSF) Việt nam hiện nay nằm trong số 5 quốc gia, được coi là những ‘nhà tù’ lớn nhất đối với các nhà báo.
Diển đàn Việt Nam 21:
– Phản đối những hành vi phi pháp của chính quyền CS đã xâm phạm nghiêm trọng quyền tự do báo chí và lập hội cuả người dân.
– Đòi hỏi Chính quyền CS phải trả tự do cho ba nhà báo của HNBĐL và các tù nhân chính trị đang bị giam cầm nhiều năm trong nhà tù CS.
– Kêu gọi Liên minh Âu châu (EU) hãy tạm ngưng thi hành Hiệp định Hiệp định Thương mại Tự do giữa EU và Việt Nam (EVFTA), cho tới khi chính quyền CS thực sự tôn trọng và thực thi những cam kết trong các văn kiện quốc tế về Nhân quyền.
– Kêu gọi các cá nhân, tổ chức người Việt trong và ngoài nước biểu dương tinh thần đoàn kết với cuộc đấu tranh của HNBĐL vì Tự do báo chí và Dân chủ hoá Việt Nam.
CHLB Đức ngày 06.01..2021
TS Dương Hồng Ân
Điều hợp viên Diễn Đàn Việt Nam 21


Tù và tội. Bài 2: Không thể giao cái không có

I. Công hàm 1958
Những năm gần đây, Trung Quốc (TQ) ngày càng ngang ngược lấn chiếm biển đảo Việt Nam. Ngày 17/04/2020, TQ gửi công hàm lên Liên Hợp Quốc để khẳng định chủ quyền với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (thuộc chủ quyền của Việt Nam). Trong đó, TQ khẳng định Chính phủ Việt Nam cũng đã công nhận điều này thông qua “Công hàm năm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng”[*][2.1] (“Công hàm 1958” – Hình 2.1).
(Hình 2.1. Công hàm 1958 không có giá trị pháp lý chuyển giao lãnh thổ)
Nếu như trước đây những ai công khai, bình luận Công hàm 1958, thì có thể sẽ được công an mời làm việc, nhẹ nhàng thì nhắc nhở: đây là vấn đề đại cuộc, nhạy cảm, để Đảng và Nhà nước lo; còn nặng thì… hậu quả khôn lường!
Còn bây giờ thì Đảng cho công khai luôn, công khai sự thật Công hàm 1958[2.2] và mục đích ký văn bản vào thời điểm đó. Nói chung là Đảng rất tài tình sáng suốt, nhưng lại bị người đồng chí, anh em “16 chữ vàng, 4 tốt” là “Trung Quốc cố ý xuyên tạc công hàm Phạm Văn Đồng”[2.3]. 
Theo Đảng thì thực tế là Công hàm 1958 không có giá trị pháp lý chuyển giao lãnh thổ, xem trích nguyên văn báo viết: 
“VNDCCH không thể quyết định hoặc chuyển giao một thứ mà VNDCCH không có thẩm quyền quản lý theo công pháp quốc tế, và cũng không kiểm soát nó trong thực tế.

Bởi vì theo các quy định trong Hiệp định Geneve năm 1954 thì lúc này trên lãnh thổ Việt Nam tồn tại song song hai quốc gia, từ vĩ tuyến 17 trở ra phía Bắc là VNDCCH, còn từ vĩ tuyến 17 trở vào phía Nam là lãnh thổ thuộc VNCH. Hoàng Sa, Trường Sa đều nằm ở phía Nam của vĩ tuyến 17, vì thế về mặt pháp lý cũng như trong thực tế, hai quần đảo này là đối tượng quản lý của VNCH, và vì thế, những tuyên bố của phía VNDCCH đối với Hoàng Sa, Trường Sa vào thời điểm này là không có giá trị pháp lý.” [2.2] (hết trích)
Diễn giải cho dễ hiểu là: Theo công pháp quốc tế VNDCCH (Miền Bắc) không thể chuyển giao Hoàng Sa, Trường Sa cho TQ năm 1958; bởi vì lúc đó Hoàng Sa, Trường Sa thuộc quyền quản lý của VNCH (Miền Nam).
Như vậy, về mặt luật pháp, logic và thực tế là: không thể giao (cho, tặng) cái không có.
II. Nguyên tắc: KHÔNG THỂ TÁC ĐỘNG VÀO CÁI KHÔNG TỒN TẠI
Từ phân tích Công hàm 1958 của những nhà nghiên cứu luật quốc tế: không thể giao cái không có, thì Miền Bắc không thể chuyển giao Hoàng Sa, Trường Sa cho TQ năm 1958, bởi vì họ không có quản lý.
Mở rộng ra, nguyên tắc: không thể tác động vào cái không tồn tại.
Ví dụ: người hành nghề mê tín, dị đoan chuyên đi diệt trừ tà, ma là có tội (Điều 320). Bởi vì không tồn tại “tà, ma”, thì làm gì có chuyện “diệt, trừ”!
1. Chính quyền nhân dân là gì?
Mọi người có thể tìm hiểu “chính quyền là gì ?”[*], nhưng với câu hỏi “chính quyền nhân dân là gì ?”[2.4] thì rất hiếm người hiểu.
Nếu như “Tòa án nhân dân”, “Viện kiểm sát nhân dân”, … được định danh, định nghĩa trong Hiến pháp và một số Luật; thì “chính quyền nhân dân” lại không có định danh, định nghĩa trong Hiến pháp, Luật và cũng không tồn tại trong từ điển Tiếng Việt phổ thông.
Đã là nhà nước pháp quyền thì luật pháp cần phải tường minh, chuẩn mực với một cách hiểu chung duy nhất, chứ không thể “chính quyền nhân dân được hiểu là…” theo cảm tính, nhận thức của người nắm quyền lực.
Rất mong những nhà lập hiến, lập pháp cần định nghĩa, làm rõ đối tượng “chính quyền nhân dân” để đa số đông công dân có thể hiểu được. Liên quan tới “chính quyền nhân dân” có đến 11 tội danh, trong đó có 4 tội danh lên đến mức tử hình[2.5]. Cho nên có khả năng sẽ có người bị tống vào tù, thậm chí bị tử hình mà không biết mình bị tội gì?. 
Ví dụ: phân tích hình phạt thấp nhất của Điều 117.1.a) 
“1. Người nào có một trong những hành vi sau đây nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm:

a) Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm có nội dung xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân;”
Tạm thời không nói về hành vi phạm tội, ở đây xin làm rõ đối tượng bị phạm tội là “chính quyền nhân dân” là gì?, là ai? lại không chỉ ra được!
Không thể kết tội giết người nếu không chỉ ra được người chết. 
Cũng như không có ai diệt trừ tà ma cả, bởi vì “tà, ma” không tồn tại.
Cho nên cũng không thể “chống, lật đổ, phá hoại, xuyên tạc, phỉ báng, …” một cái không tồn tại, đó là: “chính quyền nhân dân”.
Hoàn toàn phù hợp với lập luận “không thể chuyển giao cái không có”, mà Đảng và Nhà nước dựa trên công pháp quốc tế, khẳng định: VNDCCH không thể chuyển giao Hoàng Sa, Trường Sa cho TQ năm 1958, bởi vì VNDCCH không có thẩm quyền quản lý, và cũng không kiểm soát nó trong thực tế. 
Tuy nhiên TQ lại cố tình chà đạp lên công pháp, luật pháp quốc tế, cố ý xuyên tạc công hàm Phạm Văn Đồng (hình 2.2)
(Hình 2.2. Biển Đông: Trung Quốc cố ý xuyên tạc công hàm Phạm Văn Đồng, nguồn [2.3])
2. Có hay không có tự do dân chủ?
Không thể phủ nhận là trong tiến trình phát triển và hội nhập ngày càng sâu rộng với nền văn minh của nhân loại, Việt Nam cũng đã có những cải cách lớn nâng các quyền tự do dân chủ của người dân lên. Với những người sinh trước 1975, trải qua nhiều biến cố xã hội và trải nghiệm thì dễ thấy sự thay đổi này nhất.
Hiến pháp năm 2013 dành riêng “Chương II. Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” là một minh chứng cho sự phát triển tự do dân chủ của người dân Việt.
Nếu đặt câu hỏi “Việt Nam tự do dân chủ ở mức độ nào?”: câu hỏi này khó đưa ra kết luận. Số câu trả lời là vô cùng, tranh luận không bao giờ dứt bởi tương ứng với tư duy, nhận thức, môi trường sống của từng người cũng… vô cùng khác biệt. Chẳng hạn như nhận thức về “quyền con người” trong chính một con người như ông Đinh La Thăng khi thay đổi môi trường sống [2.6].
Để cho đơn giản, thay vì đặt câu hỏi cho thí sinh là kết quả kỳ thi là “giỏi dỡ thế nào?”, thì hỏi “đậu / rớt”, cũng như hồ sơ chấm thầu “đạt / không đạt”. Loại câu hỏi trắc nghiệm logic: Yes / No, Có / Không?.
Đặt lại câu hỏi “Việt Nam có tự do dân chủ hay không ?”: từng người dễ trả lời hơn.
Mời mọi người cùng trắc nghiệm:
– Tuy nhiên, khác với Điều 4: Đảng Cộng sản Việt Nam…, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội (không “do pháp luật quy định”); thì “Điều 25” lại thêm vào câu cuối: “Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định.”. Có nghĩa là, nếu chỉ với Hiến pháp thì chưa có tự do, còn phải được “pháp luật quy định” nữa !
– Các bạn tra Google, đã có các luật quy định để bảo đảm quyền tự do về “ngôn luận, báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình” hay chưa? Nếu có thì “đạt tự do”, nếu chưa thì ngược lại. Đơn giản vậy thôi.
Đến đây mọi người hãy tự kết luận, trả lời câu hỏi trắc nghiệm “Việt Nam có tự do dân chủ hay không ?”
Tiếp đến là phân tích những tội danh có liên quan đến “tự do dân chủ” chẳng hạn như “lợi dụng, xâm phạm,…” ; trên nguyên tắc “không thể tác động vào cái không tồn tại” như phân tích về “Hoàng Sa, Trường Sa” hay “chính quyền nhân dân” ở trên.
Ví dụ: 
Nói: tội “xâm phạm quyền tự do biểu tình” là không thể có, bởi vì pháp luật không có quy định cho “quyền tự do biểu tình”.
Còn tội “lợi dụng các quyền tự do dân chủ…” thì trước hết phải xác định có “quyền tự do dân chủ” không đã? rồi hãy nói đến tội “lợi dụng”.
***
Nguyên tắc “không thể tác động vào cái không tồn tại” trước khi đưa vào luật đã được áp dụng trong tự nhiên, kỹ thuật, kinh tế,… chính nhờ nguyên tắc này mà xã hội phát triển. 
Vận dụng nguyên tắc này trên cơ sở công pháp quốc tế để chứng minh: VNDCCH (Miền Bắc) không thể chuyển giao Hoàng Sa, Trường Sa cho TQ năm 1958. Vậy mà TQ cố ý xuyên tạc công hàm Phạm Văn Đồng (hình 2.2).
Vận dụng nguyên tắc này vào luật pháp quốc gia: có nhiều tội danh không thể hình thành, nên không thể buộc tội.
Tuy nhiên… !
Mời các bạn xem câu chuyện ngụ ngôn: Chó Sói (CS) và Dê con (Hình 2.3). CS tự đưa ra lý lẽ của kẻ mạnh, bất chấp tất cả. 
(Hình 2.3. Chuyện ngụ ngôn Chó Sói và Dê con)
(Còn tiếp…)
Ghi chú:
[*] Tra Google nội dung trong ngoặc kép (“”)
[2.2] Sự thật Công thư 1958 của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng https://tuoitre.vn/su-that-cong-thu-1958-cua-co-thu-tuong-pham-van-dong-609181.htm
[2.3] Biển Đông: Trung Quốc cố ý xuyên tạc công hàm Phạm Văn Đồng https://plo.vn/thoi-su/bien-dong-trung-quoc-co-y-xuyen-tac-cong-ham-pham-van-dong-910577.html
[2.4] Xem Bài 1. CHÍNH QUYỀN NHÂN DÂN của cùng tác giả https://danlambaovn.blogspot.com/2021/01/tu-va-toi-bai-1-chinh-quyen-nhan-dan.html
Nguồn:
[2.5] Theo Bộ luật Hình sự năm 2015; sửa đổi, bổ sung năm 2017, các tội danh liên quan tới “chính quyền nhân dân” chịu mức án tử hình: Điều 109. Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân; Điều 112. Tội bạo loạn; Điều 113. Tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân; Điều 114. Tội phá hoại cơ sở vật chất – kỹ thuật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
[2.6] Ông Đinh La Thăng: ‘Hãy đối xử với bị cáo như số phận một con người’ https://thanhnien.vn/thoi-su/ong-dinh-la-thang-hay-doi-xu-voi-bi-cao-nhu-so-phan-mot-con-nguoi-945205.html


Phiếm (nhạt) đầu năm

– Có lẽ không tỉnh thành nào được quí vị lãnh đạo Đảng/Nhà Nước quan tâm, và đặt nhiều kỳ vọng như Thanh Hoá:

– Chủ Tịch Trần Đại Quang : “Thanh Hóa cần khắc ghi lời Bác để trở nên một tỉnh kiểu mẫu.”
– Chủ Tịch Trương Tấn Sang: “Phấn đấu đến năm 2020, Thanh Hóa trở thành một trong những tỉnh tiên tiến, xây dựng Thanh Hóa trở thành tỉnh giàu đẹp, tỉnh kiểu mẫu như Bác Hồ hằng mong ước.”
Năm 2020 đã qua nhưng Thanh Hoá – tiếc thay – vẫn chưa có vẻ gì là sắp (hay sẽ) “giàu đẹp”, “tiên tiến” và “kiểu mẫu” như Bác đã hằng “mong ước” cả. Tin tức nhan nhản, đọc được hàng ngày, trên báo chí nước nhà – xem chừng – không được lạc quan hay khích lệ gì cho lắm: 
Những mẩu tin tiêu cực như trên vẫn xuất hiện đều đều từ mấy thập niên qua. Tới cuối năm rồi, may quá, Thanh Hoá (bỗng) đạt được hai kỳ tích sáng chói: 
– Cô gái xứ Thanh Đỗ Thị Hà đăng quang Hoa hậu Việt Nam 2020 
Tuy cả hai sự kiện vừa nêu đều đáng được ghi vào lịch sử của tỉnh nhà nhưng công luận, buồn thay, vẫn có không ít điều tiếng mỉa mai (chì chiết) chỉ vì cái tựa ngô nghê của bản tin thượng dẫn: 
Phạm Thanh Nghiên : “Mồ ma Trần Dân Tiên ở lăng Đinh Bà mà sống lại cũng đến ‘ạ’ các con nhang đệ tử trong đội ngũ ‘nhà báo Cắt Mạng’ mất thôi.”
Thiên Đức: “Nặng mà 500 bảng Anh? Báo chí mà ngu hết không cho ai ngu bớt vậy.”
Đinh Văn Hải: “Quả bom nặng 500 bảng Anh. Đù, trọng lượng mà đơn vị là tiền tệ mới ghê. Dốt nát mà hay đánh đu chữ nghĩa.”
Tường An: “Ngu không chừa chỗ cho người khác ngu với các ông nội ?”
Chung Nguyenvan: “Báo chí cắt mạng toàn bọn bại não.”
Dư luận, rõ ràng, hơi quá khắt khe và vô cùng nghiệt ngã! 
Ở một đất nước mà “những người uy tín” thường dùng bằng giả, và những vị lãnh đạo quốc gia đều rất “ê a” (hoặc “cờ lờ vờ”) thì sự lờ mờ giữa cân Anh với bảng Anh của một ông nhà báo quốc doanh nào đó … chỉ là chuyện nhỏ – như con thỏ thôi. Có chi nghiêm trọng đâu mà phải rầm rĩ dữ vậy, hả Trời? Sao không nhìn vào những khía cạnh tích cực hơn cho nó vui vẻ cả làng, và cả nước?
Coi: kể từ khi bác Hồ đến thăm Thanh Hoá lần đầu vào năm 1947 đến nay, tính cho gọn, đã là ba phần tư thế kỷ rồi. Gần tám thập niên đói “liên tục” mà tỉnh nhà vẫn sản xuất ra được một cô hoa hậu nhan sắc khuynh thành (há) chả phải là một điều kỳ diệu, rất đáng hãnh diện sao? 
Tương tự, tuy đói quay quắt nhưng Bộ Chỉ Huy Quân Sự Thanh Hóa đã không mang quả bom đi cân sắt vụn (bán đồng nát kiếm thêm chút cháo) mà còn “tiêu hủy” đàng hoàng (thế) chả phải là một việc làm vô cùng dũng cảm, và cần được biểu dương sao?
Khách quan mà xét, cả hai vụ này đều xứng đáng để tỉnh nhà làm lễ báo công dâng Bác. Tuy thế, theo thiển ý, chúng ta không nên mang dâng cô hoa hậu cho Người. Lúc sinh thời Bác vốn đã bị hơi nhiều tai tiếng (về chuyện luyến ái lăng nhăng) nên nay lại bỏ gái vào lăng e sẽ không tránh được lắm chuyện nhân thế eo sèo.
Bởi thế, tôi đề nghị: chỉ cần mang quả bom nặng 500 cân Anh vào lăng là đủ. Tuy đã được báo cáo là “tiêu hủy thành công” nhưng có quả bom chưa nổ – chắc chắn – sẽ làm giảm bớt số lượng bầy đoàn, vẫn thường xếp hàng (rồng rắn) nườm nượp ra vào, cứ y như đi chợ vậy.
Năm rồi, sổ tay của tôi còn ghi rõ: 
– Ngày 30 tháng 4: Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng vào Lăng viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh 
(Đ…mẹ! Bộ tụi nó thờ ma xó hay sao mà cứ đi ra/ đi vô – xì xụp, lạy lục, cúng kiến – hoài vậy, hả Trời?)
Còn lỡ trái bom cỡ này mà nổ (bất tử) cho bung cái lăng luôn thì lại càng khỏe nữa. Để nó nằm chình ình mấy chục năm qua (giữa Thủ Đô Của Lương Tri & Phẩm Giá Con Người) ngó rất khó coi, và cũng tốn kém vô cùng. Vào năm 2000, G.S. Trần Khuê đã từng đề nghị:
“Tổng cục Thống kê và Bộ Tài chính thử tính sổ xem 30 năm qua ta đã tiêu tốn vào lăng Người tổng số là bao nhiêu tiền của… Và thử xem riêng ngân sách dự chi cho năm 2000 xem có thể xây được bao nhiêu trường học cho một ngàn xã hãy còn vắng về giáo dục ở miền cao. Có thể xây bao nhiêu căn nhà để nuôi trẻ mồ côi… Có thể xây bao căn nhà dưỡng lão cho người già lão cô đơn, không nơi nương tựa. Có thể xây bao nhiêu nhà thương làm phúc chữa bệnh cho người nghèo…”
Giáo sư Hà Văn Thịnh cũng đã bầy tỏ tâm sự với không ít băn khoăn:
Quả bom hơn 200 ký mà nổ trong lăng thì đúng là ơn Trời. Trong chớp mắt, Bác sẽ biến mất tiêu mà không phải “đưa ra” (đưa vô) gì ráo trọi, và cũng chả cần sự “tán thành” hay tán đồng của bất cứ ai.
Sau đó, nếu dùng ngân quỹ duy trì lăng Bác hàng năm chỉ để dành riêng cho tỉnh Thanh Hoá (coi như tiền thưởng) thì bộ mặt của tỉnh này – chắc chắn – sẽ hoàn toàn thay đổi:
– Dân Thanh Hoá sẽ không còn phải vác rá đi xin gạo hằng năm.
– Trâu bò ở Thanh Hoá được thả tự do ăn cỏ ngoài đồng mà không phải chịu một thứ thuế phí nào ráo.
– Người Thanh Hoá sẽ thôi phải phải tha phương cầu thực (đi bán kem, bán trái cây, hay làm việc phụ hồ) ở những nước láng giềng Lào – Thái. 
– Giới quan chức Thanh Hoá ai cũng có thể nuôi thêm vài cô “hot girl” mà không cần phải ăn chận tiền hỗ trợ cho nạn nhân thiên tai, hay cắt xén tiền học bổng của học sinh nghèo… nữa.
Chỉ cần một quả bom để làm lễ báo công mang dâng Bác mà có thể giải quyết tất tần tật mọi vấn đề, và mang lại vô số ơn ích cho tỉnh nhà (nói riêng) cùng cả nước (nói chung) mà còn chần chờ gì nữa – mấy cha?


Tình đồng chí 2020

– Cách nay 1 năm, lúc 3 giờ sáng ngày 9-1-2020, 3.000 công an cảnh sát tấn công vào nhà đảng viên Lê Đình Kình ở xã Đồng Tâm. Cụ Kình 84 tuổi bị công an giết chết ngay hôm đó. Theo thông báo của Bộ công an thì có 3 cán bộ là Thịnh, Quân, Huy bị chết cháy khi tấn công vào nhà đồng chí Kình. Theo thông tin thì 3 cán bộ bị cháy hơn 20 phút, không còn nhận ra hình dạng.

Ai ai cũng biết là khi bị cháy thì rất đau rát, 3 cán bộ bị cháy hơn 20 phút chắc chắn đã la hét vang trời vì đau đớn. Khi đó có 3.000 công an cảnh sát (CACS) đang ở xã Đồng Tâm, hàng trăm CACS đang bao vây nhà cụ Kình, đứng cách nơi 3 cán bộ bị cháy khoảng chừng 10 mét, 20 mét, nhưng không có một người nào vào cứu 3 đồng chí của mình. Tại sao?
Có lẽ các CACS không có tình đồng chí với cán bộ nên không tới cứu. Hiện nay, người nào muốn vào công an thì phải chạy tiền. Làm công an moi tiền của nhân dân rồi phải đóng thuế hàng tháng cho cấp trên. Quan hệ giữa công an và cán bộ là quan hệ tiền bạc, không có tình đồng chí.
Có lẽ các CACS không đồng ý với việc đảng cộng sản ra lệnh đàn áp nhân dân, cán bộ hung hăn tấn công vào nhà dân thì bị chết ráng chịu. CACS bị đảng gọi thì phải tới, nhưng họ chỉ đứng ở đó, không muốn gây đổ vỡ cho nhân dân để cứu cán bộ.
Có lẽ 3 cán bộ đã bị chết trước khi vào hố, rồi vụ cháy được tạo ra để vu oan cho nhân dân. Lãnh đạo đảng không ra lệnh cho mấy trăm CACS đang đứng gần đó vào cứu đồng chí, họ để cho cán bộ bị cháy hơn 20 phút, trở thành than đen, rồi mới vào kéo lên.
Đảng cộng sản độc quyền thông tin, không cho các cơ quan truyền thông đến tìm hiểu sự thật, ngay cả phóng viên của báo đảng cũng không được vào làng. Các văn sĩ của Bộ công an viết ra kịch bản Đồng Tâm, bênh vực cho đảng và nói xấu nhân dân, vì viết không đúng sự thật nên kịch bản có nhiều mâu thuẩn. Bởi vậy mọi người, và ngay cả đảng viên cộng sản, phải sống với các giả thuyết do quần chúng đưa ra.
Vì kịch bản giả dối nên khi người dân chỉ ra điểm mâu thuẩn thì Bộ công an lại sửa đổi để che giấu. 9 tháng sau khi sự việc xãy ra, họ cho thêm một chi tiết mới. Khi 3 cán bộ bị cháy, mấy trăm CACS đứng gần đó không vào cứu, vì không dám hoặc không muốn hoặc không có lệnh, thì cấp trên lại ra lệnh cho điệp viên 007 Đặng Việt Quảng đang ở cách hiện trường 2 cây số chạy bộ về. Quảng tấn công vào nhà cụ Kình, và đồng chí Quảng bắn chết đồng chí Kình.
Ngày 7-9-2020, 29 người dân Đồng Tâm bị đưa ra tòa án, sau 9 tháng bị giam giữ, điều tra, ép cung. Viện kiểm sát truy tố 25 người dân về tội giết người, mặc dù nhiều người không có mặt ở nơi xãy ra vụ cháy, có người ở cách đó cả cây số. Đảng cộng sản khinh thường nhân dân Việt Nam, muốn kết tội ai như thế nào thì kết tội, không đưa ra bằng chứng tối thiểu. Hồ sơ tòa án cũng ghi lời khai của công an Quảng, kẻ giết người, với tư cách là: người bị hại. Xã hội cộng sản thật đảo điên, người ở trong nhà bị tấn công thì bị truy tố là giết người, còn kẻ tấn công vào nhà người khác và giết chết chủ nhà thì lại xem là người bị hại!!!
Nhớ lại vụ án ông Nguyễn Thanh Chấn ở Bắc Giang vào năm 2003, ông Chấn bị kết tội giết người mặc dù ông không giết người nào cả, ông bị chọn để công an có thành tích phá án. Các văn sĩ Bộ công an viết ra kịch bản, họ ép ông đọc theo rồi dùng nó làm kết luận điều tra là ông khai nhận tội. Họ còn đi xa hơn nữa, ép buộc ông Chấn diễn xuất theo kịch bản rồi dùng nó làm bằng chứng trước tòa. Vợ ông Chấn phải lặn lội 10 năm trời, thu thập chứng cứ để minh oan cho chồng. Đến khi hung thủ thật nhận tội thì ông Chấn mới được ra tù.
Bộ công an sáng chế ra các kịch bản có lợi cho chính quyền, có hại cho người dân, trôi chảy như truyện phim xi-nê, nhưng nó là giả dối. Trong vụ án Đồng Tâm, cũng như các vụ án tù nhân lương tâm, chúng ta phải bình tỉnh xem lời nói của bị cáo là thật lòng hay là bị công an ép buộc.
Ai là thủ phạm gây ra cái chết của 3 cán bộ? Chính đảng cộng sản ra lệnh cho 3.000 CACS tấn công vào xã Đồng Tâm đã gây ra cái chết đó, nếu không có cuộc tấn công thì 3 cán bộ và đảng viên Kình đã không bị chết. Gia đình những người tử vong phải tìm cho ra ai đã ra lệnh tấn công, cấp lãnh đạo nào không làm tròn trách nhiệm khi để 3 cán bộ bị cháy hơn 20 phút mà không vào cứu, cấp lãnh đạo nào đã ra lệnh giết cụ Kình. Họ là những kẻ phải bị truy tố trước pháp luật, chứ không phải là các nông dân, nạn nhân của cuộc tấn công.
Trọng, Phúc, Lâm cho việc giết chết đảng viên Kình là chiến công hạng nhất, thăng chức cho công an Quảng. Khi cụ Kình đã chết, lãnh đạo đảng còn đi nói xấu người đồng chí 56 tuổi đảng là cường hào địa chủ. Hàng ngàn CACS trang bị vũ khí đầy mình không vào cứu 3 đồng chí bị cháy, cấp lãnh đạo nghe kêu cứu trên bộ đàm cũng không đến, để họ chết đen như than. Tình đồng chí của người cộng sản lạt như nước ốc bạc như vôi.


Đại hội 13 đảng CSVN: Một tương lai đen tối cho dân tộc

– Đại Hội 13 đảng CSVN dự trù diễn ra từ ngày 25 tháng 1 đến ngày 2 tháng 2 năm 2021. 

Dù Nguyễn Phú Trọng tham quyền cố vị bám víu quyền lực, hoặc chức vụ Tổng Bí Thư được trao cho Trần Quốc Vượng, Nguyễn Xuân Phú, Nguyễn Thị Kim Ngân hay bất cứ một nhân vật nào khác, thì đảng cũng sẽ tiếp tục con đường đưa dân tộc đến bờ vực thẳm vì các lý do sau đây:
Thứ nhất, Đại hội 13 sẽ không bao giờ từ bỏ xã hội chủ nghĩa:
Các quốc gia cựu Liên Bang Xô Viết và các cựu chư hầu từ đông sang tây đã từ bỏ xã hội chủ nghĩa, chấp nhận kinh tế thị trường, khai phóng trí tuệ và khả năng sáng tạo của nhân dân, đưa đất nước đi lên hầu bắt kịp các quốc gia dân chủ Tây Âu. Trong khi đó đảng CSVN ngoan cố theo chân đàn anh CSTQ, duy trì xã hội chủ nghĩa. Thật vậy “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” chỉ là một khái niệm què quặt, sao chép từ khái niệm “xã hội chủ nghĩa với đặc tính Trung Quốc” hầu duy trì một hệ thống doanh nghiệp nhà nước rộng lớn, do đảng kiểm soát và đảng viên được dung túng tham ô.
Thứ nhì, Đại hội 13 sẽ tiếp tục củng cố độc tài đảng trị qua điều 4 hiến pháp, toàn bộ hiến pháp 2013 và các biện pháp đàn áp đối lập.
Thật vậy, trước thềm đại hội, ngày 5 tháng 1 vừa qua Tòa Án Nhân Dân TP Hồ Chí Minh, theo chỉ thị của đảng, đã kết án các nhà tranh đấu dân chủ Phạm Chí Dũng 15 năm tù giam, Nguyễn Tường Thụy 11 năm tù giam và Nguyễn Hữu Minh Tuấn 11 năm từ giam. Ngoài ra mỗi người bị thêm 3 năm quản chế sau khi mãn hạn tù. Các bản án này chiếu theo điều 117 Bộ Luật Hình Sự năm 2015 với tội danh “Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống nhà nước CHXHCNVN”.
Bản án này là một thông điệp răn đe toàn thể quốc dân về quyết tâm của đảng CSVN trong việc duy trì độc tài độc đảng và vĩnh viễn ngự trị trên đầu cổ một dân tộc lầm than.
Thứ ba, đại hội 13 sẽ tiếp tục duy trì quan hệ chủ tớ với đảng CSTQ, qua đó, CSVN là tôi tớ và CSTQ là chủ nhân ông. Đảng CSVN sẽ tiếp tục tôn vinh phương châm nô lệ gồm 16 chữ vàng là “Ổn định lâu dài, hướng tới tương lai, hữu nghị láng giềng, hợp tác toàn diện”. Sau đó là 4 tốt gồm “Láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”. 
Đảng CSVN cũng sẽ tiếp tục nhượng bộ CSTQ tại Biển Đông. Sau khi đã bán Ải Nam Quan, một nửa Thát Bản Giốc, Hoàng Sa, một phần Trường Sa cho CSTQ thì đảng ta lại hèn nhát không dám phản đối mạnh mẽ sách lược tằm ăn dâu của TQ gặm nhắm hải đảo và vùng biển của Việt Nam tại vùng biển chiến lược này.
Lịch sử nhân loại đã sang trang và đại đa số các dân tộc trên thế giới đã hòa nhập vào tiến trình canh tân kinh tế và dân chủ hóa của nhân loại, ngoại trừ một số quốc gia cộng sản chuyên chế như Việt Nam, Trung Quốc, Bắc Hàn, Cuba…
Lịch sử đã chứng minh rằng, muốn sống còn, những quốc gia trong quỹ đạo văn hóa và chính trị truyền thống của Trung Quốc, phải vượt trội TQ trên mọi phương diện, nhất là kinh tế và quân sự. Nhật Bản, Nam Hàn, Đài Loan đã làm được điều đó.
Chỉ khi nào Đại hội 13 đảng CSVN chấp nhận trả lại quyền tự quyết cho toàn dân và thực thi các điều sau đây:
Thứ nhất, thoát ly toàn diện khỏi mô hình kinh tế TQ, buông bỏ xã hội chủ nghĩa và khái niệm què quặt “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” cũng như canh tân và tư hữu hóa toàn diện kinh tế, quyết tâm hội nhập vào thị trường các nước Tây Phương.
Thứ hai, hủy bỏ hiến pháp 2013, bao gồm điều 4 hiến pháp, trả lại tự do cho tất cả các tù nhân chính trị và lương tâm. Đảng phải chấp nhận rời bỏ quyền lực chính trị, hợp tác với mọi thành phần và đảng pháp đối lập xây dựng một thể chế mới trên nền tảng dân chủ hiến định, pháp trị và đa nguyên. 
Thứ ba, lập tức đưa TQ ra Tòa Trọng Tài Thường Trực tại The Hague, Hà Lan hầu chận đứng các xâm lấn của CSTQ tại Biển Đông, bảo vệ di sản của tiền nhân và vùng biển huyết mạch của dân tộc.
Trừ phi đại hội 13 minh thị chấp nhận các sách lược nêu trên thì thành phần mới của Ban Chấp Hành Trung Ương gồm những ai, các ủy viên Bộ Chính Trị nhiệm kỳ mới thuộc phe nhóm nào, hoặc ai sẽ là tân Tổng Bí Thư sẽ hoàn toàn không có ý nghĩa. 
Dân tộc Việt vẫn sẽ phải đối diện với một tương lai vô cùng đen tối.
10/1/2021


Jacqueline Kennedy

Tổng Thống John F. Kennedy và phu nhân

– Suốt thời gian dài, tôi – cũng như mọi người trên thế giới – phải sống trong sự tù quẩn và âu lo vì “Tàu dịch” Covid-19 giết hại không biết bao nhiêu nhân mạng. 
Sáng nay, tháng Giêng ngày 7-2021, tựa đề bản tin của Cheri Mossburg và Theresa Waldrop trên CNN lại làm cho tôi hoảng sợ: “Every 8 minutes, someone in Los Angeles County dies from Covid-19.” 
Tôi hoảng sợ vì tôi không hiểu, không nhớ – trong quá khứ xa xăm – nước Mỹ và người dân Hoa Kỳ đã làm gì thất đức mà hiện nay nước Mỹ và người dân Hoa Kỳ phải chịu tai ương Covid-19 và những biến động chính trị kinh hoàng đến như thế?
Là một người không thích, không biết và không theo dõi chính trị, nhưng không hiểu tại sao những xáo trộn chính trị gần đây, tại Hoa Kỳ, lại khơi dậy trong hồn tôi những xáo trộn chính trị của đầu thập niên 60 trên Quê Hương tôi.
Đầu thập niên 60, tôi đã là một thiếu nữ. Nhưng – vì bậc trung học tôi theo ban Anh văn – tôi không hiểu tại sao chỉ với tuần báo Paris Match mà Ba tôi có thể biết gần như mọi biến chuyển trọng đại trên thế giới. Tôi cũng không hiểu tại sao mỗi khi Ba tôi có bạn đến chơi, bàn luận về chính trị, văn chương, thể thao, v.v…thì Ba tôi thường bảo tôi bưng nước trà mời các Bác, các Chú chứ Ba tôi không cho cô giúp việc bưng nước mời; nhờ thế, đôi khi tôi được “nghe lóm” vài đề tài rất hấp dẫn.
Một trong những đề tài hấp dẫn mà tôi được “nhe lóm” khi Ba tôi cùng các bạn của Ba tôi đang bàn luận là ông John F. Kennedy – ứng cử viên Tổng Thống Hoa Kỳ trẻ nhất kể từ thời Hoa Kỳ lập quốc. Từ đó, tôi bắt đầu tò mò và lưu tâm đến phu nhân của những nhân vật quyền lực trên thế giới. Đối với tôi, cạnh một nhân vật đầy uy quyền hoặc một người hùng phải là một phụ nữ xinh đẹp thì bức tranh mới toàn bích.
Vì quan niệm của tôi là như thế, cho nên, khi thấy ảnh của bà Jacqueline Kennedy – phu nhân của Tổng Thống Kennedy – tôi có thiện cảm với Bà ngay.
Vào thời đại tôi mới lớn, một thiếu nữ hoặc phụ nữ được cho là đẹp nghĩa là người nữ đó được Trời ban cho sắc đẹp tự nhiên; không cần phải “chỉnh, sửa, bơm, độn”; răng không được “niền” cho đều đặn, như thời đại sau này. Bà Jacqueline Kennedy là một trong những mệnh phụ được Trời ưu đãi. 
Trước khi lưu tâm đến vài mệnh phụ Âu Mỹ, tôi đã thích nét đẹp và cách phục sức giản dị nhưng rất quý phái và đài các của nữ minh tinh điện ảnh Audrey Hepburn. Không ngờ, khi thấy ảnh của bà Jacqueline Kennedy, tôi nhận ra kiểu và màu sắc trang phục của bà Jacqueline Kennedy cũng rất đơn giản, quý phái và đài các không thua gì y phục của Audrey Hepburn. Tôi rất vui thích khi biết bà Jacqueline Kennedy thường xuất hiện trên nhiều tạp chí – không thua gì các tài tử xi-nê nổi tiếng – và Bà được chọn là một trong 12 phụ nữ mặc trang phục xinh đẹp nhất thế giới.
Những dòng chữ tôi viết về bà Jacqueline Kennedy chỉ là những nhận xét – có thể là chủ quan, hạn hẹp – thuần về cảm tính của một phụ nữ Á Đông đối với một mệnh phụ Hoa Kỳ chứ không thể là những phán xét dựa trên bất cứ căn bản hoặc khía cạnh nào cả. Và tôi chỉ viết giới hạn trong thời gian Bà là đệ nhất phu nhân của Hoa Kỳ mà thôi. Đó là lý do tôi chọn tựa bài là Jacqueline Kennedy. 
Là một phụ nữ rất trẻ – 31 tuổi – bà Jacqueline Kennedy là đệ nhất phu nhân trẻ thứ ba của Hoa Kỳ. Bà Jacqueline Kennedy không những chinh phục được tình cảm của đa số người dân Hoa Kỳ mà Bà còn chinh phục được cảm tình của hầu hết mọi người trên thế giới. 
Dường như Tổng Thống Kennedy cũng đã nhận ra được “lợi thế” của bà Jacqueline Kennedy, cho nên, khi cùng phu nhân thăm viếng nước Pháp, Tổng Thống Hoa Kỳ Kennedy đã nói đùa một câu “để đời”: “I am the man who accompanied Jacqueline Kennedy to Paris – and I have enjoyed it!”
Sau khi rời Pháp, Tổng Thống Kennedy và phu nhân đến Vienna, Austria; tại đây, Thủ Trướng Nga – Nikita Khrushchev – được yêu cầu bắt tay Tổng Thống Kennedy để chụp hình. Thủ Trướng Nikita Khrushchev đáp: “I’d like to shake her hand first.”
Với nụ cười rạng rỡ và ánh mắt ngời sáng, cuộc đời của bà Jacqueline Kennedy tưởng chỉ toàn màu hồng; nhưng không! Bà Jacqueline Kennedy đã trải qua những khổ đau mà ít người phụ nữ nào có đủ nghị lực để trực diện.
Một trong những nỗi đau bất tận của Bà là chính Bà đã ở bên cạnh và chứng kiến bằng mắt thật về cái chết làm rúng động thế giới của chồng Bà – John Fitzgerald Kennedy, vị Tổng Thống thứ 35 của Hoa Kỳ – ngày 22 tháng 11 năm 1963! 
Sau khi Tổng Thống Kennedy được đưa đến phòng cấp cứu của bệnh viện Parkland, chính bà Jacqueline Kennedy đã yêu cầu – và được chấp thuận – được có mặt trong phòng giải phẫu khi bác sĩ đang giải phẫu cho Tổng Thống Kennedy.
Sau khi bác sĩ không thể cứu được Tổng Thống Kennedy, Bà Jacqueline Kennedy từ chối thay bộ y phục màu hồng nhạt – do chính Tổng Thống Kennedy chọn cho Bà – thấm máu Tổng Thống Kennedy và Bà tỏ ra ân hận vì Bà đã rửa các vết máu của Thổng Thống Kennedy trên mặt và trên tay của Bà. Bà Jacqueline Kennedy giải thích với phu nhân Phó Tổng Thống Lyndon B. Johnson: “…that she wanted them to see what they have done to Jack” – tên gọi ở nhà của Tổng Thống Kennedy!
Năm 1963, khi thấy những vết máu của Tổng Thống Kennedy vương vãi trên y phục cùng với nét mặt vừa đớn đau vừa uất hận vừa hoang mang của bà Jacqueline Kennedy khi Bà đứng cạnh Phó Tổng Thống Lyndon B. Johnson trong giây phút Phó Tổng Thống Lyndon B. Johnson tuyên thệ để kế nhiệm cố Tổng Thống Kennedy, tôi không cầm được nước mắt!
Từ hình ảnh đau khổ tột cùng của một góa phụ trẻ – bà Jacqueline Kennedy – tôi tự hỏi, không hiểu bà Jacqueline Kennedy nghĩ như thế nào về những lời “đồn đoán lăng nhăng” giữa Tổng Thống Kennedy và nữ minh tinh Marilyn Monroe? Bà có khổ tâm, ghen tương về sự việc nhạy cảm này hay không? Bà có còn tin tưởng và thương yêu ông Kennedy như trước khi “tin đồn” đó loan ra hay không?
Vì tò mò, tôi tìm đọc trên báo Việt Nam – vào thời điểm tin đồn được loan tải. Tôi không nhớ tên tờ nhật báo đó; nhưng tôi nhớ có một tờ báo đăng tin rằng Marilyn Monroe hóa trang, đội tóc giả, đến Tòa Bạch Ốc bằng trực thăng; nhưng tờ báo đó không viết rõ Marilyn Monroe đến Tòa Bạch Ốc để làm gì. 
Sau đó, tôi không hề thấy bất cứ một thông tin nào đề cập đến thái độ của bà Jacqueline Kennedy trong sự “đồn đoán” về sự liên hệ tình cảm giữa Tổng Thống Kennedy và Marilyn Monroe. 
Sự im lặng – trước dư luận và báo chí – của bà Jacqueline Kennedy làm cho tôi cảm phục và có thiện cảm với Bà nhiều hơn.
Dù dành cho bà Jacqueline Kennedy rất nhiều thiện cảm, tôi cũng vẫn nhận ra rằng sự kiện Marilyn Monroe hát mừng sinh nhật Tổng Thống John Fitzgerald Kennedy ngày 19 tháng 05 năm 1962 là một sự kiện rất lãng mạn, rất dễ thương giữa một nữ tài tử nổi tiếng lẫy lừng và một Tổng Thống rất trẻ, đẹp trai, đầy uy quyền, xuất thân là một sĩ quan Hải Quân Hoa Kỳ. Lời cảm ơn của Tổng Thống Kennedy dành cho Marilyn Monroe cũng không kém phần lãng mạn và trang trọng: “I can now retire from politics after having had ‘Happy Birthday’ sung to me in such a sweet, wholesome way.” 
Là một phụ nữ, tôi tự hỏi: Không hiểu “vết thương” trong trái tim của bà Jacqueline Kennedy – khi sự kiện Sinh Nhật năm 1962 của Tổng Thống Kennedy xảy ra – có sâu thẳm lắm hay không? Dù “vết thương” của bà Jacqueline Kennedy có sâu thẳm đến đâu đi nữa, tôi cũng nghĩ rằng, đó là “vết thương êm ái” chứ không phải là sự tổn thương. 
Từ ý nghĩ “thi vị hóa vết thương”, tôi rất tôn trọng và quý mến những phụ nữ biết đặt danh dự của chồng con cao hơn tự ái của chính mình. 
Sự quý mến của tôi dành cho bà Jacqueline Kennedy càng sâu đậm hơn khi tôi biết Bà đã được Tổng Thống Lyndon B. Johnson đề cử vào chức vụ đại sứ Hoa Kỳ tại Pháp hoặc tại Mexico hay là tại United Kingdom – nhưng Bà đều từ chối.
Ngược lại, bà Jacqueline Kennedy chỉ yêu cầu Tổng Thống Lyndon B. Johnson đổi tên Trung Tâm Không Gian tại Florida thành Trung Tâm Không Gian John F. Kennedy.
Qua bao nhiêu thập niên cũng như qua không biết bao nhiêu biến động – cả tàn bạo lẫn nhân ái – trên mảnh đất Hoa Kỳ, tôi nhận thấy thế giới và Hoa Kỳ vẫn dành cho bà Jacqueline Kennedy cảm tình nồng hậu nhất. 
Để minh chứng cho nhận xét của tôi, tôi xin trích một câu ngắn từ Wikipedia: “…Even after her death, she ranks as one of the most popular and recognizable First Ladies in American history, and in 1999, she was listed as one of Gallup’s Most-Admired Men and Women of the 20th century.”


Phác thảo Dân Chủ

(Danlambao) dịch – Aleksandr Solzhenitsyn (1918-2008) được trao Giải Nobel Văn chương năm 1970. Những trang viết này, viết vào năm 1978, và được đăng lần đầu tiên bằng tiếng Anh ở tạp chí Mỹ New Criterion, tả lại cuộc viếng thăm của ông đến bán bang Appenzell của Thụy Sĩ vào tháng Tư 1975.

Hai tháng trước Bang Appenzell mời tôi tham dự lễ bầu cử của họ, và chủ bút báo Neue Zurcher Zeitung, Fred Luchsinger, đã cực lực khuyên tôi rằng đây là một dịp mà tôi nhất quyết không được bỏ qua, và bây giờ ông lái xe đưa (vợ tôi) Alya và tôi đến đấy. Thứ Hai tôi sẽ đi Canada, và vì bầu cử vào ngày Chúa Nhật, cho nên tôi vẫn còn có thể đến dự được. Appenzell là bang miền núi nhỏ ở phía đông Thụy Sĩ; thực ra, có hai Appenzell- hai bán bang-một Công Giáo và một Tin Lành, tách biệt nhau. Chúng tôi được mời đến bán bang Công Giáo. Trên đường đến đấy, khi chúng tôi đi ngang qua những người đi bộ đến tòa đô chính (Ở Appenzell người ta thường đi bộ đến nơi bầu cử- không làm như thế là không nên), thật không thể nào mà không nhận thấy rằng tất cả đàn ông đều mang gươm, biểu tượng của quyền bỏ phiếu, mà phụ nữ và thiếu niên không có. Người ta từ khắp nơi đi bộ đến, họ cũng đi trên các cánh đồng cỏ (luật ở Appenzell quy định rằng trước Ngày Bầu Cử người ta có thể đi trên cánh đồng cỏ, nhưng sau đó không được phép đi để cho cỏ mọc cao bình thường). Nhiều thanh niên và phụ nữ đeo bông tai ở một bên tai.
Thánh lễ Công Giáo kết thúc, nhà thờ đông nghẹt người, và quanh bàn thờ treo những lá cờ cầu kỳ của các xã của Appenzell. Những lá cờ phướn dài có những hoa văn, biểu tượng, và hình ảnh kỳ lạ của thú vật treo từ cửa sổ của những ngôi nhà gỗ sơn màu tươi sáng. Những ai được mời vào tòa đô chính trước tiên phải để vũ khí lại ở đấy, và rồi khoác áo choàng đen lên người. Rồi sáu người trong bộ đồng phục truyền thống cầm cờ đi đầu đoàn diễu hành, đi kèm bên cạnh họ là các em bé phụ lễ cũng mặc đồng phục. Các viên chức và khách danh dự cùng đi diễu hành, họ bước đi thật chậm rãi trên phố đầy những người dân thị thành đứng xem hai bên đường, trong khi ấy nhiều người tụm lại thành nhóm ở trên tất cả các cửa sổ đều chồm người ra ngoài xem. Mọi người đón mừng tôi rất nồng nhiệt, tưởng như tôi là đồng bào họ hôm nay thành danh về lại cố hương, thế mà tôi cứ tưởng ở nơi xa xăm này họ chẳng nghe gì đến tên mình. (Họ chào đón tôi không chỉ với tư cách nhà văn, mà còn với tư cách chiến sĩ chống lại cái ác. Thống đốc bang-Landammann-cũng nói đến điều này trong bài diễn văn.)
Một cái bục gỗ được dựng lên ở quảng trường dành cho các viên chức mà khoảng độ chục người. Họ đứng thành hàng trên bục và đứng ở đấy với đầu trần và áo choàng đen trong suốt toàn bộ buổi lễ. Quảng trường đông kín stimmberechtigte Manner- những người có quyền bỏ phiếu- họ cũng đeo gươm bên mình, đầu họ để trần, người tóc bạc, kẻ muối tiêu, lại có người tóc đỏ hoe; nhưng tất cả họ đều mặc áo quần bình thường. Phụ nữ tập trung ở đâu đó bên ngoài đám đông hay đứng trên ban công và ở cửa sổ. Trẻ em ngồi vắt vẻo trên những mái nhà nghiêng, và đập vào mắt là cảnh một người chụp ảnh đứng giạng chân trên đầu hồi mái nhà. Thống đốc bang-Landammann Raymond Broger, tóc hoa râm, vẻ mặt thông minh và cương nghị, đọc một bài diễn văn mà khiến cho tôi kinh ngạc. Ước gì Châu Âu có thể lắng nghe chăm chú và cảm thông bán bang Appenzell của nó! Ước gì nhưng người lãnh đạo các nước lớn có thể làm theo những tư tưởng rất hay ấy!
Landammann nói trong suốt hơn năm trăm năm qua cộng đồng chúng ta đã không thay đổi gì nhiều về hình thức chính quyền tự trị của cộng đồng. Chúng ta được hướng dẫn bởi lòng xác tín rằng không có những thứ như “ tự do chung chung”, mà chỉ có những quyền tự do riêng biệt, mỗi quyền đều gắn liền với trách nhiệm và sự tự chế của chúng ta. Hầu như mỗi ngày, bạo lực trong thời đại chúng ta chứng minh cho chúng ta thấy rằng tự do được bảo đảm của cá nhân hay nhà nước là không thể nào có được nếu không có kỷ luật và trung thực, và chính xác vì những lý do này mà cộng đồng chúng ta đã duy trì trường tồn sức sống kỳ diệu của mình qua suốt hàng bao thế kỷ. Cộng đồng chúng ta không bao giờ hàng phục trước sự rồ dại của tự do hoàn toàn, và không bao giờ thỏa hiệp với cái ác để hy vọng làm cho nhà nước có quyền lực tối thượng. Không thể nào có một nhà nước hoạt động hợp lý nếu không có một chút yếu tố quý tộc và thậm chí quân chủ. Hoàn toàn hiển nhiên là trong một nước dân chủ phán xét cuối cùng trong tất cả các vấn đề quan trọng thuộc về nhân dân, nhưng nhân dân không thể hiện diện mỗi ngày để điều hành nhà nước. Và chính quyền không được chiều theo những cử tri hay thay đổi chỉ để cho những người lãnh đạo của chính quyền sẽ được tái đắc cử, chính quyền cũng không được đọc những bài diễn văn lừa dối nhằm gây ảnh hưởng đến cử tri, mà phải lội ngược dòng. Bằng việc làm và bằng sự thật nhiệm vụ của chính quyền là phải hành động theo cách mà đa số nhân dân biết suy nghĩ sẽ hành động nếu như họ biết được tất cả các chi tiết của mọi thứ, điều này càng trở nên không thể có được dưới khối lượng công việc cộng đồng ngày càng quá tải. Vì vậy chúng ta chỉ còn cách chọn ra người tài giỏi nhất để hướng dẫn và quản trị chúng ta. Dân chủ mà không có dũng khí, dân chủ mà cố gắng ban quyền cho tất cả mọi cá nhân, tất sẽ thoái hoá thành dân chủ của nô lệ. Một chế độ chính quyền tốt không phụ thuộc vào các điều khoản hoàn hảo của hiến pháp, mà phụ thuộc vào tài năng gánh vác trách nhiệm của các nhà lãnh đạo. Chúng ta xem thường dân chủ nếu chúng ta chọn những người yếu đuối vào chính quyền dân chủ. Hơn bất kỳ chế độ nào khác, chính chế độ dân chủ mới thực sự cần bàn tay mạnh mẽ có khả năng đưa nước nhà đi theo con đường rõ ràng. Bao cuộc khủng hoảng mà xã hội hiện nay đang đối mặt không phải do nhân dân gây ra, mà đều do chính quyền gây ra.
Đây không phải là tháng Tư bình thường, mà là tháng Tư năm 1975, một thời khắc nguy hiểm cho Phương Tây (mặc dù Phương Tây hầu như chẳng ý thức về điều ấy), Hoa Kỳ đã bỏ chạy khỏi Đông Dương. Chỉ mười ngày trước cuộc bầu cử ở Appenzell báo chí Phương Tây ngây thơ tường thuật: “ Nhân dân Phnom Penh hân hoan chào đón Khmer Đỏ “.
Vì vậy, vào ngày tháng Tư này ta thật sự rất kinh ngạc khi nghe trên quảng trường thành phố đầy nắng này- tại nơi xa xăm của thế giới, nhưng lại nằm ngay chính trung tâm của Châu Âu- lời cảnh báo về mức độ nguy hiểm chung đã tăng lên trong năm qua, khi nghe người ta kinh hoàng biết bao nhiêu trước thái độ của Mỹ trong việc bỏ rơi các đồng minh ở Đông Dương, và cũng kinh hoàng biết bao nhiêu trước số phận của những người dân Miền Nam VIệt Nam đang lũ lượt chạy trốn “ giải phóng quân” cộng sản. Đối diện với bi kịch này, Landammann nói tiếp, chúng ta hết sức lo âu mà tự hỏi liệu Mỹ sẽ vẫn còn trung thành với đồng minh Châu Âu, một Châu Âu không thể nào tự bảo vệ trước cuộc xâm lược của Liên Xô nhưng mong đợi sự ủng hộ của Mỹ như thể đã được cam kết. Đặc biệt trong suốt cuộc Chiến tranh Việt Nam, tâm lý chống Mỹ đã phát triển ở Châu Âu; do vậy, chúng ta phải cho rằng trong tương lai Mỹ sẽ không đến bảo vệ bất kỳ nước nào mà không nỗ lực tự bảo vệ mình. Châu Âu phải chứng tỏ ngay lập tức rằng Châu Âu sẵn sàng chấp nhận hy sinh lớn lao và đoàn kết một cách có hiệu quả.
Rồi Landammann chỉ trích Thụy Sĩ vì Thụy Sĩ đã coi mức chi tiêu quân sự mà chiếm 1.7 phần trăm ngân sách quốc gia là quá cao, sau đấy ông nói về kinh tế và về Thụy Sĩ không còn là quốc gia lý tưởng nữa.
Sau bài diễn văn này và thêm mấy lời chào mừng quan khách, Landammann tháo sợi dây chuyền lớn bằng kim loại, một biểu tượng quyền lực của ông, và trao lại cho người đứng bên cạnh trên bục cùng với cái gì đấy hơi giống như cây gậy, rồi nhanh chóng rời khỏi khán đài. Chỉ thế thôi. Ông đã phục vụ xong nhiệm kỳ.
Tuy nhiên, một viên chức khác bước đến chỗ ông vừa mới đứng, và đề nghị rằng Broger nên được bầu thêm một nhiệm kỳ nữa cũng với chức vụ Landammann. Viên chức ấy kêu gọi bỏ phiếu, và toàn bộ đám đông đàn ông tập hợp trên quảng trường thành phố nhất loạt giơ tay lên. Không cần phải đếm phiếu, vì kết quả rất rõ ràng: Broger đã tái đắc cử. (Đến đây tôi phải cố nén cười thầm: tưởng gì, dân chủ,giống như ở trong nước.)
Broger quay trở lại chỗ ông mới vừa mới đứng lúc trước đó, và, giơ tay lên, bằng giọng to lặp lại lời thề mà diễn giả đã đọc lớn cho ông nghe. Rồi ông mang sợi dây chuyền lại vào người và đọc to lời thề để cho đám đông tập hợp bên dưới lặp theo, đám đông quả thực lặp theo, đúng là nhân dân thề với nhân dân!
Rồi Landammann bắt đầu công bố tên của các thành viên nội các của ông, đọc đến tên người nào ông cũng đều hỏi đám đông có ai phản đối gì chăng; không ai phản đối gì, mặc dù ông dường như chỉ cho người ta một hoặc hai giây để phản đối. Tôi vẫn tiếp tục cười thầm: lại giống như ở trong nước. Nhưng tôi nhận ra ngay mình đã sai lầm. Đạo luật quan trọng đầu tiên mà Landammann cố gắng trình trước cử tri là đạo luật về tăng thuế: ông nói bang đang gặp khó khăn về tài chính. Tiếng rì rầm lan ra trong đám đông, mọi người hỏi ý kiến lẫn nhau. Một người bước lên bục và phát biểu trong năm phút chống lại đạo luật được đề xuất. Rồi Bộ trưởng Tài chính cố gắng biện hộ cho đạo luật, nhưng đám đông lại rì rầm, nói họ không muốn nghe ông ta nói hết mà chỉ muốn bỏ phiếu ngay. Landammann kêu gọi mọi người giơ tay lên: Tất cả những ai ủng hộ? -chỉ một vài cánh tay giơ lên. Tất cả những ai phản đối? -có cả rừng tay. Những cánh tay giơ vọt lên mạnh mẽ như thể đám đông đang vỗ cánh, cuộc bỏ phiếu có sức mạnh phán quyết mà không tồn tại trong các cuộc bỏ phiếu kín. (Chưa kể đến gươm và dao đeo ở thắt lưng của mỗi người, mặc dù người ta không thể nhận thấy rõ chúng trong đám đông.)
Landammann có vẻ rất thất vọng, và, theo như tôi hiểu, ông đã sử dụng quyền của chức vụ của mình, phản đối kết quả bỏ phiếu để yêu cầu bỏ phiếu lại lần thứ hai. Đám đông kính cẩn lắng nghe ông, nhưng rồi vẫn bỏ phiếu một cách rất quyết liệt như trước: không được tăng thuế!
Đúng là tiếng nói của nhân dân. Vấn đề đã được quyết định một cách thuyết phục -không cần có các bài báo, nhà bình luận trên truyền hình hay các ủy ban Thượng Viện; điều này diễn ra chỉ mười phút nhưng cho cả năm tới.
Chính quyền bấy giờ trình đề nghị thứ hai: tăng trợ cấp thất nghiệp. Đám đông la to: “ Họ phải đi làm! “. Từ trên bục “ Họ không tìm ra việc! “. Đám đông: “ Họ phải tiếp tục tìm việc! “ Không có tranh luận. Một lần nữa cuộc bỏ phiếu là một tiếng “ không “ quyết liệt. Đa số áp đảo là quá rõ ràng đến mức không cần đếm tay, nhiều cử tri thậm chí còn không giơ tay đủ cao để được đếm, mà có lẽ người ta cũng chẳng bao giờ đếm, vì kết quả luôn luôn rõ ràng trước mắt.
Rồi chính quyền đưa ra đề nghị thứ ba: chấp nhận những cá nhân, chủ yếu là những người Ý, mà đã sống vài năm ở Appenzell trở thành công dân của bang. Có độ mười người như thế. Có cuộc bỏ phiếu riêng rẽ dành cho từng người này, và theo như tôi hiểu, tất cả họ, đều đã bị bác vì không đủ xứng đáng, không chấp nhận.
Vậy là không, điều này rõ ràng hoàn toàn không giống như ở trong nước. Sau khi đồng lòng bầu lại Landammann yêu quý của họ, giao phó cho ông việc thành lập loại chính phủ ông muốn, họ ngay lập tức bác bỏ tất cả các đề nghị chính của ông. Và bây giờ ông phải lãnh đạo! Tôi chưa từng bao giờ thấy hay nghe đến một nền dân chủ như thế, cho nên rất khâm phục (đặc biệt sau bài diễn văn của Landammann Broger). Đây là loại dân chủ chúng ta có thể cần đến. (Phải chăng các cuộc họp thành phố trung cổ của chúng ta-veche- có lẽ cũng rất giống như thế này chăng?).
Liên bang Thụy Sĩ, được thành lập vào năm 1921, quả thực bây giờ là nền dân chủ lâu đời nhất trên thế giới. Nền dân chủ này không xuất phát từ các tư tưởng Khai Sáng, mà trực tiếp từ những hình thức cuộc sống công xã cổ đại. Tuy nhiên, những bang kỹ nghệ, đông dân, giàu có đã mất tất cả điều này, đã bắt chước Châu Âu từ bao nhiêu năm nay (và đã bắt đầu có mọi thứ của Châu Âu từ váy rất ngắn đến poses plastiques gợi dục). Nhưng ở Appenzell, ngược lại, nhiều thứ vẫn được gìn giữ như ngày xưa.
Thế giới quả là rất đa dạng, và thế giới ban cho chúng tôi rất nhiều thứ mà chúng tôi chưa từng bao giờ biết đến, chưa từng bao giờ thấy! Chúng tôi có biết bao nhiêu điều để nghĩ về nước Nga của tương lai-nếu chúng tôi ước gì được ban cho cơ hội để suy nghĩ.
Sáng hôm sau tôi bay qua Canada, trong tâm trạng vừa bất an lẫn phấn khởi. Một mặt, tôi ra đi với ý nghĩ không bao giờ trở lại (tôi mang theo nhiều thứ cá nhân và một số bản thảo), với ý nghĩ tìm một mái nhà ở vùng hoang vu khắc nghiệt nào đó ở Canada, để hoàn toàn ẩn dật, xa lánh thế giới mà đang cắn xé tôi, và với ý nghĩ chỉ viết và viết thôi. Tôi không còn muốn đi nghỉ mát dù chỉ một tuần ở một nhà miền quê đâu đó, mà chỉ muốn luôn luôn ở trong nhà mình. Tôi đã năm mươi sáu tuổi rồi, nhưng mục tiêu chính của công trình của tôi về Bánh xe Đỏ vẫn còn ở phía trước. Tôi phải cẩn trọng rằng cuộc đời tôi, với bao thăng trầm dữ dội và bao thành công bên ngoài, đã không bất ngờ chợt thấy mình đã thất bại trong nhiệm vụ chính của cuộc đời mình.
Mặt khác, đây là những ngày đỏ lửa của cuộc đầu hàng của Việt Nam Cộng Hòa, nhưng cả Mỹ lẫn Châu Âu vào những ngày nay đều không nhận thức nền tảng tương lai của họ đã rung chuyển rất nhiều. Landammann của Appenzell đã gắng hết sức nói một cách can đảm và công khai với lục địa Châu Âu, nhưng ai sẽ nghe ông? Tôi đã trải qua một năm xáo động, không thể bén rễ ở đâu, không thể sống lâu ở đâu, mà cứ rày đây mai đó – và điều gì tôi đã thực sự nói ngoài việc xuất bản Quần đảo Ngục tù? Đối với người hiểu được, tất nhiên, tác phẩm ấy quá đầy đủ, nhưng thực sự có mấy ai ở Châu Âu dám hiểu? Và khi tôi ở Pháp- tôi nói được rất nhiều ư? Trách nhiệm thật sự của tôi là đối với tác phẩm của tôi. Tôi hoàn toàn không cố gắng bảo vệ mình khi tôi tuyên bố rằng tôi không phải là nhà chính trị: tôi không muốn bị kéo vào các cuộc tranh luận chính trị triền miên, vào một loạt các vấn đề mà đối với tôi là không cần thiết-điều tôi muốn là chọn những vấn đề của tôi và khi nào tôi sẽ thảo luận chúng. Không phải tính khí tôi khiến tôi luôn thờ ơ, khiến tôi trốn vào nơi hoang vu, mà ngược lại khiến tôi đi thẳng vào đám đông đông đúc nhất và la to nhất.
Trong vài giờ tới mâu thuẫn này đã được giải quyết như sau: khi bay qua đại dương, trong chuyến bay bảy giờ tôi đã viết, như tôi thường xuyên nghĩ, bản thảo đầu tiên và rồi bài báo hoàn chỉnh “ Thế Chiến Thứ Ba? “ (1)
Làm sao người ta đã không thể nào thấy được chứ? Trước tiên họ dâng Đông Âu cho Chủ nghĩa Cộng sản, còn bây giờ đến Đông Á, và chẳng ai chặn đứng sự thâm nhập của Chủ nghĩa Cộng sản vào Trung Đông, Châu Phi, và Châu Mỹ La tinh. Vì sợ một cuộc đại chiến mới, người ta có thể dễ dàng giao nộp cả hành tinh này. Khi sống trong cảnh thịnh vượng thì thật khó mà cương quyết và chấp nhận hy sinh!
Vì tôi biết dịch vụ bưu chính Canada không đáng tin cậy do thường hay đình công, cho nên tôi trao lá thư có bài viết ấy cho một chiêu đãi viên hàng không để nhờ anh mang về lại Thụy Sĩ cùng ngày.
Và kìa nước Mỹ đã hiện ra dưới cánh máy bay tự lúc nào.
Chú thích:
(1) Bài viết này được đăng lại trên báo Mỹ New York Times vào ngày 22/6/1975. Người dịch đã dịch sang tiếng Việt và đăng trên trang mạng Talawas.
Nguồn: Dịch từ tạp chí Mỹ The New Criterion số tháng Chín 2018

Trần Quốc Việt


Việt Nam có bị oan khi Hoa Kỳ dán nhãn thao túng tiền tệ hay không?

Mẹ Nấm (Danlambao) – Ngày 17/12/2020, Hoa Kỳ đưa Việt Nam vào danh sách các quốc gia thao túng tiền tệ và ngay lập tức Chính phủ Việt Nam đã lên tiếng qua bài viết của báo Nhân Dân “Việt Nam và nỗi oan thao túng tiền tệ” (1) để giải thích cho người dân trong nước. Việt Nam có thực sự bị oan hay không? 

Thao túng tiền tệ (currency manipulation) là quyết định trừng phạt mà chính quyền Mỹ áp đặt lên những quốc gia có liên quan đến các “hoạt động tiền tệ không công bằng” nhằm trục lợi thương mại. 
Theo Bộ Thương Mại Hoa Kỳ, Việt Nam đã vi phạm 3 tiêu chí sau đây. 
– Tiêu chí thứ nhất: thặng dư thương mại hàng hóa song phương vượt quá 20 tỷ USD. 
– Tiêu chí thứ 2: thặng dư cán cân vãng lai tương đương ít nhất 2% GDP. 
– Tiêu chí thứ 3: phá giá đồng tiền. Hành động phá giá đồng tiền thể hiện qua việc mua ròng ngoại tệ ít nhất 6 trên 12 tháng với tổng lượng ngoại tệ mua ròng ít nhất 2% GDP trong 12 tháng.
Từ tháng 5/2019, theo báo cáo “Chính sách kinh tế vĩ mô và ngoại hối của các đối tác thương mại lớn của Mỹ”, Việt Nam đã nằm trong danh sách giám sát “thao túng tiền tệ” vì vi phạm hai tiêu chí về thặng dư thương mại song phương và thặng dư cán cân vãng lai. Số liệu cho thấy thặng dư thương mại hàng hóa giữa Việt Nam với Mỹ là 47 tỷ USD, vượt con số 20 tỷ USD. Để giải quyết vấn đề này theo lời Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc trong cuộc họp với Bộ Công Thương vào ngày 7/1/2021 rằng “Chính phủ rất quyết liệt giảm thâm hụt thương mại, chống gian lận xuất xứ và chuyển tải bất hợp pháp” bằng các hành động cụ thể.” (2). 
Thực tế cho thấy từ năm 2019, khi đưa Việt Nam vào danh sách theo dõi các quốc gia “thao túng tiền tệ” trong bối cảnh cuộc chiến thương mại Mỹ – Trung đang diễn ra gay gắt, Hoa Kỳ đã nhận thấy Trung Quốc đã lách thuế quan bằng cách đưa hàng qua nước khác rồi xuất khẩu sang Mỹ. Việt Nam là một trong những quốc gia giúp sức cho Trung Quốc thực hiện chính sách này rất hiệu quả, đổi lại là con số xuất siêu của Việt Nam sẽ tăng cao và là thành tựu kinh tế. Tuy nhiên hành động này vị phạm vào tiêu chí nguồn gốc xuất xứ hàng hóa của Hoa Kỳ. Lấy ví dụ trong tháng 12/2019, Hoa Kỳ ra quyết định đánh mức thuế cao nhất 456% cho một số. mặt hàng thép nhập khẩu sau khi các công ty thép tại Mỹ trình đơn đề nghị Bộ Thương mại tiến hành cuộc điều tra mặt hàng thép có nguồn gốc từ Việt Nam. Trước đó, Hải quan Hoa Kỳ đã xác định Công ty TNHH nhôm Toàn Cầu (Bà Rịa-Vũng Tàu) có gian lận chứng nhận xuất xứ (C/O) khi công ty này nhập 5 tỉ USD nhôm từ Trung Quốc để sản xuất tại Việt Nam rồi xuất sang Mỹ. (3) 
Từ câu chuyện trên có thể thấy, Việt Nam không bị oan khi vi phạm tiêu chí số 1 và 2 : xuất siêu sang Mỹ gấp 2.85 lần mức quy định – thặng dư cán cân vãng lai 4.6% GDP. 
Ngày 17/12/2020, sau khi bị Hoa Kỳ đưa vào danh sánh “thao túng tiền tệ”, Ngân hàng nhà nước Việt Nam lên tiếng giải thích rằng: việc thu mua ngoại tệ ròng chỉ là dịch vụ đổi tiền để phục vụ hoạt động thanh toán trong nước, không phải là công cụ thao túng tiền tệ.(4) 
Việt Nam có bị oan khi đã vi phạm tiêu chí thứ ba: mua ròng ngoại tệ 5.1% GDP hay không? 
Câu trả lời là không! 
Theo giải thích của tiến sĩ Trương Văn Phước – thành viên tổ tư vấn kinh tế của Thủ tướng: cán cân vãng lai bao gồm cán cân thương mại và các khoản chuyển tiền từ nước ngoài về, nhất là kiều hối. Cán cân vãng lai của Việt Nam chủ yếu do nhận tiền kiều hối từ nước ngoài về. Đây là tiền mà người Việt Nam ở nước ngoài chuyển về trợ cấp cho thân nhân trong nước và tiền do người lao động Việt Nam ở nước ngoài chuyển về. (5). 
Lời giải thích này liệu có hợp lý với chính phủ Hoa Kỳ không? Trong khi đại dịch COVID-19 xảy ra, thế giới suy thoái, số người mất việc rất cao, dẫn tới công nhân lao động nước ngoài cũng bị ảnh hưởng nặng nề. Vậy tiền đâu ra để gửi về trong nước? 
Tại sao Hoa Kỳ lưu tâm đến chuyện Việt Nam mua ròng đồng đô la? Vì đây dấu hiệu phá giá đồng tiền để thu hút đầu tư và sẽ không công bằng trong cạnh tranh thương mại với các quốc gia khác. 
Để giữ vững các chỉ số tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh không thể giảm xuất khẩu sang Mỹ nhằm cân bằng thâm hụt thương mại, lại phải bảo đảm nguồn dự trữ ngoại hối nên Việt Nam đã thực hiện việc thu gom ngoại tệ bằng những chính sách thả nổi giá vàng nhằm khuyến khích dòng tiền trong dân đổ ra thị trường. Kết quả là cuối năm 2020, việc ghìm giá đồng đô la trên thị trường tự do và mua ròng trong 6 tháng đã khiến Hoa Kỳ chính thức đưa Việt Nam vào danh sách “thao túng tiền tệ”. 
Nhìn lại những lý do nêu trên, từ năm 2019 đến năm 2020, Việt Nam đã có thời gian để điều chỉnh các tiêu chí theo quy định của Bộ Thương Mại Hoa Kỳ nhưng không cải thiện. Liệu trong năm 2021, ông Nguyễn Xuân Phúc có thực hiện “quyết tâm giảm thâm hụt thương mại, chống gian lận xuất xứ và chuyển tải bất hợp pháp” khi lợi ích từ Trung Quốc đưa lại quá lớn hay không? 
Tham khảo:
11.01.2020

Mẹ Nấm
danlambaovn.blogspot.com


Bàn về cách sử dụng người tài trị quốc

 – Chúng ta cùng xem nhiều gương xưa nay về cách sử dụng nhân tài trị quốc để thấy CS VN chúng ngụy, ngược ngạo trái quy luật như thế nào. CS VN bị tôi nện tan tác về mặt triết học Mác-Lê mà tôi chứng minh là sai từ gốc, từ Mác ấy. VN ta có ca dao:

Quân tử ứ hự đã đau
Tiểu nhân dùi đục đập đầu như không.
Tôi thách CS VN lẫn CS quốc tế chứng minh được Mác đúng, tôi sai. Nói như dùi đập đầu, CS VN im thin thít. Tôi năn nỉ CS VN phản biện, chúng tịt. Làm như tôi là độc cô cầu bại, múa gậy vườn hoang vậy!! Bài viết có tính chất cương lĩnh “Đòn đánh bẽ gãy xương sống lý luận của Cộng Sản”, nó ở Danlambaovn này, từ 2016, quý vị có thể tra Google để lấy, CS VN có bút chiến với tôi, bỏn thua. Tôi đúng, CS VN sai, nhưng bỏn không phục thiện, không học người đúng, mà bỏn lờ. Mở mồm dạy dỗ người khác thì hay lắm, đến khi bị đòn bút của tôi đỡ không nổi thì cả cái đảng lầm lũi chui đầu đi đường sai. Mác, Lê, Mao, Hồ,Trọng “lú” sai sạch!!
Ta nói chuyện dùng người tài, và soi vào việc dùng người tài của CS VN, xem chúng phá hoại ra sao. Xây dựng gì bỏn!
Thời hoàng đế Lý Thánh Tông, ông đưa Ỷ Lan (1044-1117) từ dân gian về cung phong làm phi tần. Cho đọc sách, học, một thời gian sau vua hỏi về trị quốc, bà nói điều quan trọng nhất là dùng người tài.
Khổng Tử (551-479 TCN) thì cho rằng nhà cầm quyền có người nào hiền tài thì dùng trước đi, rồi người hiền đó sẽ tiến cử người hiền khác trị quốc.
Á thánh Mạnh Tử (372-289 TCN) thì nói người cả làng khen là hiền tài, chưa đủ hiền. Người cả tỉnh khen là hiền, cũng chưa hiền. Người cả nước khen là hiền cũng chưa hiền. Người cả nước khen là hiền tài, vua dùng thử, thấy hiền thật thì mới giao chức cho. Chúng tôi đánh giá đây là lối nhìn người hiền tài sâu sắc nhất xưa nay.
Tề Hoàn Công (715-643 TCN) làm bá chủ các nước ở TQ thời Xuân Thu, hỏi cái gì làm hại tới nghiệp bá, Quản Trọng, tướng quốc vĩ đại nhất đương thời trả lời không biết người tài là hại, biết mà không dùng là hại, dùng mà không chuyên là hại. Dùng người tài như thế thì dù bậc quân chủ có đam mê tửu sắc vẫn không có hại.
Đời Lưu Bang tức Hán Cao Tổ (256-195 TCN), sau khi chiến thắng kẻ thù lớn nhất là anh hùng cái thế Hạng Vũ, ông hỏi quần thần có biết vì sao ông thắng không. Quần thần trả lời không đúng bản chất vấn đề. Ông nói ông có Tam Kiệt là Trương Lương (lo chính trị), Hàn Tín (lo quân sự, bách chiến bách thắng), Tiêu Hà (lo kinh tế, hậu cần) làm bề tôi, còn Hạng Vũ chỉ có một mưu thần Phạm Tăng mà không biết dùng nên bị ông đánh bại.
Vương Dương Minh (1472-1528), triết gia, đại thần, người giỏi việc binh thời nhà Minh TQ, đi đánh giặc cướp. Đánh gian nan mới tóm được hắn. Hỏi sao tài vậy, tên cướp cầm đầu trả lời thấy ai là người tài giỏi thì tìm mọi cách làm quen để cùng mưu việc lớn. Chỉ có việc nhỏ hơn việc trị quốc mà dùng người tài, học người tài, có kết quả “tốt”, “lớn”. Vậy dùng người tài trị quốc thì ta biết kết quả tốt đẹp ra sao.
Đó là các gương xưa. Nay thì có Singapore dùng nhiều người tài mà phát triển có GDP danh nghĩa thứ 34 thế giới (2020). VN nên học theo. Mấu chốt là vậy, là dùng người hiền tài, không có gì khác. Dùng hiền tài thì trên dưới thấu suốt hết, muốn tham ô, tham nhũng cũng khó.
Tổng thống Đài Loan Tưởng Kinh Quốc (1910-1988), được dân Đài kính trọng hơn cả tổng thống lập quốc Tưởng Giới Thạch, cha Tưởng Kinh Quốc. Tổng thống Tưởng Kinh Quốc tháo dần ra, làm cho Đài Loan được tự do, dân chủ, chứ không độc tài như dưới thời Tưởng Giới Thạch. Tưởng Kinh Quốc cho các giáo sư tiến sĩ người Hoa ở khắp nơi trên khắp thế giới về Đài Loan góp ý kiến xây dựng đất nước. Ông chọn ý tưởng nào hay, phù hợp thì thực hiện làm Đài Loan phát triển. Theo tôi, VN nên học Đài Loan về điểm này. Dùng người tài như thế nào thì cứ bám sát Đài mà học.
Ta nói sơ qua để rõ về một điểm vì sao chủ nghĩa CS sai, sai từ gốc, từ Mác mà ra. Triết học Mác-Lê sai về một nguyên lý và một quy luật chính. Từ đó suy ra triết Mác – Lê sai toàn bộ, áp dụng vào đời vào trị quốc chỉ gây họa.
Nguyên lý về sự phát triển là nguyên tắc lý luận mà trong đó khi xem xét sự vật, hiện tượng khách quan phải luôn đặt chúng vào quá trình luôn luôn vận độngphát triển (vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của sự vật).
Nguyên lý này sai. Đơn giản, coi các clip về vũ trụ ở youtube, ta không biết vũ trụ tiến lên là theo hướng nào, cao thấp ra sao mà thấy rất đa hướng. Ví dụ khác: xưa vận tải bằng đi bộ. Ta đi bộ thì địch cũng biết đi bộ, vậy thấy đa hướng rồi. “Tiến lên”, đi ngựa, đi xe ngựa, rồi xe cơ giới vận tải, rồi máy bay vận tải, kể luôn việc nhân loại “vận tải” người lên mặt trăng. Có tiến bộ không? Không! Máy bay vận tải tốt thì pháo đài bay B52, B2 của Mỹ làm cho Iran, TQ gờm, hay cả trong chiến tranh VN, CS cũng phải dè dặt, sợ B52 rải thảm. B52 tốt đối với Mỹ nhưng có hại cho VN, Iran, TQ. Vậy vận tải tốt là đa hướng, không có tính tốt thuần túy. Mỹ đưa được người lên mặt trăng thì đương thời, Liên Xô rất ghét, Trung Quốc cũng sợ cái khả năng khoa học ấy mà làm vũ khí thì họa to cho CS thế giới. Những con người vĩ đại thì cũng đa hướng. Khổng Tử chuyên bị vua chúa xa lánh. Nguyễn Trãi bị tru di tam tộc. Quang Trung thiên tài, chết bệnh. Abraham Lincoln (1809-1865), tổng thống Mỹ vĩ đại, bị ám sát. Thánh Mahatma Gandhi (1869-1948) bị ám sát. Sao họ không tiếp tục phát huy thiên tài của họ nữa đi mà kết cục toàn bi thảm vậy? Nhìn vậy mà nói xã hội loài người càng ngày càng phát triển đi lên là tào lao, là tư duy xổi.
Một trong 3 quy luật chính sai là quy luật phủ định của phủ định. Sự vật, hiện tượng phát triển đi lên ngày càng cao, theo hướng lặp lại theo cái cũ nhưng trên cơ sở cao hơn. Ví dụ: Một hạt lúa trong quá trình phát triển của nó, tiến lên, bị phủ định, thành cây lúa. Cây lúa phát triển, bị phủ định trở lại, cho ra hạt lúa nhưng trên cơ sở cao hơn là cho ra nhiều hạt lúa hơn. Nói vậy sai vì hạt lúa có di truyền, có biến dị, sinh ra hạt lúa có thơm hơn, chống hạn tốt hơn, v.v… nhưng cũng có thể cho ra cây lúa thân yếu, hạt lép, chịu hạn tồi, chịu sâu cắn lúa tồi. Quy luật chúng tôi đưa ra hạt lúa có tính đa hướng phù hợp thực tế hơn là quy luật phát triển tiến bộ, đi lên của hạt lúa, cây lúa. CS cho rằng xã hội đầu tiên của loài người là chế độ cộng sản nguyên thủy. Phủ định của chế độ cộng sản nguyên thủy là chiếm hữu nô lệ, phong kiến và tư bản. Phủ định chế độ chiếm hữu nô lệ, phong kiến và tư bản là chế độ cộng sản trở lại, nhưng trên cơ sở cao hơn là chế độ cộng sản khoa học. Vì thế, loài người tiến lên chế độ cộng sản khoa học là tất yếu, là quy luật. Chúng tôi nói không có 3 dạng đó mà là xã hội loài người đa hướng. Cùng một số người Mỹ bầu tổng thống mà có Obama thuận Tàu, nhưng có Trump nghịch Tàu, đa hướng!
CS VN không dùng người tài mà phi Cộng sản. Họ dùng người “vừa hồng vừa chuyên”, nhiều lúc hồng hơn chuyên. Nghĩa là những người “mang theo tình yêu giai cấp trong tim”, phải coi giai cấp công nhân là tiến bộ nhất, phải đấu tranh giai cấp, phải “vô sản các nước đoàn kết lại”. Bỏn lại chuyên dùng triết học Mác-Lê áp dụng vào xã hội mà chưa phản biện tốt, anh CS nào cũng tin nguyên lý đúng, quy luật đúng mà thật ra là sai, bê cái mớ sai lầm ấy vào xã hội, chúa hại. Có loại người tiến bộ nhất của CS VN là Vũ Đức Đam nhưng đây là người ít hại nhất thôi, chứ chưa phải tiến bộ. Muốn tiến bộ, phải dùng người tài thực sự, và không theo chủ nghĩa CS. Có như vậy mới mong VN phát triển như Đài Loan, Singapore. Còn CNCS, VN không cách gì dân giàu nước mạnh được.
Thanh Hóa 16-1-2021