Lưu trữ danh mục: tin tức

Cứu quê tôi thoát gông xiềng chủ nghĩa phi nhân

– Tháng 10 năm 2020, nhà báo Phạm Đoan Trang trước khi bị bắt đã viết bức thư trong đó có câu “Xin đừng cứu tôi mà hãy cứu quê hương tôi”, tờ báo Washington Post có đăng trong bài xã luận “Don’t Free Me- Free My Country”.
Cảm hứng từ câu nói đó, Trần Chí Phúc sáng tác ca khúc Cứu Quê Tôi Thoát Gông Xiềng Chủ Nghĩa và đàn hát để tặng cho các nhà đấu tranh tự do nhân quyền đang bị cầm tù tại quê nhà.
Suy gẫm cho cùng thì chính chủ nghĩa Cộng sản đang tròng lên cổ đồng bào là thủ phạm chính, là nguyên nhân gây nên bao đau khổ cho dân tộc Việt Nam. Chủ nghĩa Cộng sản là chủ nghĩa lai căng, chủ nghĩa ngoại lai du nhập từ nước Nga Cộng, từ nước Tàu Cộng không thích hợp với văn hóa và tâm tình của người dân Việt Nam suốt mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước. 
Từ chủ nghĩa phi nhân này đã hình thành một nhà nước độc tài tham nhũng ghê gớm và lớp đảng viên cán bộ Cộng sản đặc quyền, đưa đất nước và xã hội suy thoái mọi mặt. 
Bọn cầm quyền Việt Cộng đã lợi dụng cái gọi là sở hữu đất đai toàn dân để tịch thu nhà đất đồng bào, dùng tài nguyên quốc gia mà bán cho bọn tư bản và các thế lực ngoại bang để làm giàu cho bản thân chúng.
Bọn Việt Cộng đã đặt ra điều khoản rằng Đảng Cộng Sản lãnh đạo đất nước, đứng lên trên mọi luật lệ căn bản để từ đó tạo nên một nhà nước độc tài nhất trong lịch sử dân tộc.
Cho nên phải phá gỡ cái gông xiềng chủ nghĩa cộng sản đang tròng lên cổ dân tộc thì quê hương Việt Nam mới mong có ngày thanh bình no ấm.
Lời ca:

CỨU QUÊ TÔI THOÁT GÔNG XIỀNG CHỦ NGHĨA PHI NHÂN
Xin đừng giúp tôi, xin đừng cứu tôi, mà hãy cứu quê hương tôi, thoát gông xiềng chủ nghĩa phi nhân.

Chúng sẽ bắt tôi , chúng sẽ bắt tôi, rồi kết án đưa vào tù giam, chỉ vì một tội, tôi yêu quê hương, tranh đấu cho tự do.

Chúng đã bắt tôi, chúng đã bắt tôi, vào đêm tối đưa về một nơi, dù ngày mai tôi không còn sức, mong sao anh em lửa đấu tranh vẫn hồng.

Xin đừng lo lắng cho tôi, xin đừng tìm cách cứu tôi, xin hãy chung tay, cứu giúp quê hương, thoát ra gông xiềng.

Quê hương mình chịu nhiều đau đớn, đồng bào mình chịu nhiều áp bức, vì chủ nghĩa lai căng, vì chủ nghĩa phi nhân, tròng lên cổ dân ta.

Đấu tranh này đường dài gian khó. Đấu tranh này mọi người góp sức, để thấy quê hương an vui, ngày đó đồng bào đứng lên, phá gông xiềng chủ nghĩa phi nhân.
Để nghe ca khúc Cứu Quê Tôi Thoát Gông Xiềng Chủ Nghĩa xin vào:


Người & Sếu

“Phong sương mấy độ qua đường phố
Hạt bụi nghiêng mình nhớ cố hương” Sơn Nam
Chú Horwitz à, có khi nào chú đi ngang cái hồ ở Central Park không vậy? 
– Hồ gì?
– Cái vũng nước bự thiệt bự, coi giống như cái hồ nhỏ đó mà. Không biết mấy con vịt rồi tụi nó đi đâu há?
– Vịt gì kìa?
– Thì bầy vịt hay hay bơi lòng vòng trong đó chớ vịt gì? Mùa Xuân không nói làm chi chớ còn mùa Đông kẹt dữ à nha? Lạnh ngắt như vậy sống gì nổi? Rồi tụi nó bỏ đi đâu ta?
– Mà cái gì bỏ đi đâu mới được chớ ?
– Trời đất, mấy con vịt chớ cái gì. Ý tui muốn nói là có thằng cha nào mang xe chở tụi nó đi chỗ khác không? Hay tụi nó bay ên về phía Nam vậy thôi?
Ông Horwitz quay người lại nhìn tui chằm chằm. 
Chả nóng tính dễ sợ
– Ai mà biết. Làm sao tao biết được mấy cái chuyện mẹ rượt đó?Chắc tui đã nói cái gì đó mích lòng thằng chả:
– Thì tui cũng hỏi chơi vậy thôi chớ có gì đâu mà chú nổi nóng…
– Ai nổi nóng? Có ai nổi nóng hồi nào?
Mẫu đối thoại (đại khái) như trên, tôi đọc trong cuốn The Catcher in the Rye của J.D. Salinger – cách đây đây đã mấy chục năm. 
Thuở ấy, tôi còn sống ở Đà Lạt. Nơi đây, cũng như nhiều thành phố khác ở Việt Nam, chim chóc không có mấy. Trong suốt quãng đời thơ ấu, tôi chỉ thấy có vài loại chim quen thuộc: se sẻ, bồ câu, chàng làng, chào mào, én, quạ, và thấp thoáng (đâu đó) mới có đôi chim gi, chim cu hay chim sáo.
Gà vịt thì thường chỉ xuất hiện ở trên… bàn, sau khi chúng đã trở thành thực phẩm. Thảng hoặc, mới thấy một hai đôi ngỗng hoặc dăm bẩy con ngan, cùng với vài loại gia cầm khác – nuôi quanh quẩn trong sân – nếu có dịp đi ra ngoại ô thành phố. Và những dịp đó không nhiều. Nói hơi quá ra một chút thì những năm tháng niên thiếu của tôi có phần hơi …héo úa!
Đêm nào thành phố cũng giới nghiêm. Khuya nào tôi cũng nghe tiếng súng, đôi khi cùng với tiếng bom, từ những thôn ấp rất gần thành phố. Còn chuyện giật mìn, đắp mô những con đường dẫn ra ngoại ô hay liên tỉnh vẫn xẩy ra – như cơm bữa.
Vì thế khi thời thơ ấu đã qua đi, khi hồ Xuân Hương và những đồi thông quanh Đà Lạt bắt đầu nhỏ lại, tôi thu hẹp những ngày vừa lớn của mình trong thư viện và những quán cà phê quen thuộc của thành phố: Tùng, Phi Nhạn, Kiwini… 
Và đó là lý do tại sao hình ảnh của loài di điểu – những con vịt hay con ngỗng tầm thường vẫn sống quanh quẩn trong một công viên (nào đó) ở New York, đã có cơ hội vượt hàng ngàn dặm đường dài mỗi năm, đến những chân trời xa xăm – đã để lại trong tôi một ấn tượng sâu xa.
Hơn hai mươi năm sau, có hôm, tôi đọc được một đoạn văn khác nữa về loài di điểu: “Ngỗng Gia Nã Đại sinh nở tại những đầm những hồ ven các đồng lúa bát ngát miền Alberta và Saskatchewan, mùa thu rủ nhau cả ngàn bay về miền nam trốn cái lạnh khắc nghiệt… Nhưng không quên gốc nguồn, xuân tới chúng lại tập hợp thành đàn và qui cố hương. Cái ấm áp của miền Nam không thể cướp được luôn đàn ngỗng có tình. Điều kiện sinh sống chỉ cần bớt khắc nghiệt đôi chút là ngỗng lại bay về cố hương.” (Mai Kim Ngọc, “Câu Chuyện Bảo Tồn Văn Hóa,” Văn Học, tháng 10, 97). 
Bây giờ thì tôi cũng đã xa Việt Nam không phải hàng ngàn mà là hàng vạn dặm. Nơi tôi tạm trú, khi thời tiết bắt đầu trở lạnh, hàng ngày vẫn có cả ngàn con ngỗng xuôi Nam – làm vang vọng cả bầu trời mùa Đông xám đục, bằng những tiếng kêu buồn buồn thê thiết.
Cũng qua bài báo thượng dẫn, nhà văn Mai Kim Ngọc còn đề cập đến một hiện tượng kỳ bí và ngoạn mục hơn nữa của thiên nhiên: 
“Đó là chuyện bướm, một loại bướm nổi danh, cũng của Gia Nã Đại. Tên bướm là Monarch Butterfly, tạm dịch là Vương Điệp. Mỗi mùa thu, bướm tụ họp hàng triệu con tại những nội cỏ miền Tây Gia Nã Đại, nhởn nhơ vài ngày với những bông hoa dại cuối mùa, rồi theo một hiệu lệnh bí mật chỉ loài bướm biết, chúng đồng loạt cất cánh suôi Nam. 
Mảnh dẻ thế mà chúng bay xấp xỉ ba ngàn cây số, dọc hết Hoa Kỳ, băng qua Trung Mỹ để xuống tận Nam mỹ. Xuân tới, chúng lại tập họp cùng nhau bay trở lại Gia Nã Đại. Trên đường hồi hương, chúng dừng lại nhiều trạm, mỗi trạm khá lâu, đủ để cặp đôi và đẻ trứng. Đời bướm ngắn hạn, những con bướm khởi hành mùa thu năm trước từ Gia nã Đại sẽ chết trên đường về, và không bao giờ được thấy lại cố hương.
Nhưng từ mớ trứng đẻ tại những đồng cỏ dọc đường, hoặc dưới Mễ Tây Cơ hoặc tại Mỹ, những con sâu róm nở ra, tham ăn chóng lớn như tầm ăn rỗi. Trưởng thành chúng dệt kén chui vào để biến thành nhộng. 
Đủ ngày, nhộng thành bướm, cắn kén chui ra. Đàn bướm hậu sinh mới nở tại những vùng đất gọi là tạm dung, vừa kịp cứng cáp đã họp nhau lại để bay tiếp chuyến bay qui cố hương mà cha mẹ đã bỏ dở. Chúng bay về một gốc nguồn không phải sinh quán. Chúng bay về một nguyên quán chúng chưa từng thấy. Thường thường phải ba bốn thế hệ nối tiếp, bướm mới hoàn tất lộ trình hồi hương.”
Theo tác giả, đó là “một vòng kín của sự sống. Vòng kín này bản chất liên tục, vô thủy vô chung.Đã lâu, tôi tình cờ đọc được một mẫu tin ngắn trên báo Nhân Dân – số ra ngày 3 tháng 10 năm 99, phát hành tại Hà Nội – như sau: 
“130 Chim Sếu Đầu Đỏ Về Khu Bảo Tồn Tràm Chim (Đồng Tháp). Năm nay, thời gian chim sếu về khu bảo tồn Tràm Chim cũng giống như năm trước, nhưng số lượng chim sếu đã giảm đi một nửa. Nguyên nhân sự giảm sút trên chưa được xác định. Được biết, năm 1998 vào thời cao điểm có tới 510 chim sếu đầu đỏ đã về Tràm Chim.”
Cũng báo Nhân Dân, đúng mười ba tháng sau, số ra ngày 10 tháng 04 năm 2000, tiếp tục và thản nhiên loan tin: “Theo Ban Quản lý Vườn Quốc gia Tràm Chim, đến đầu tháng 4 năm 2000, đã có khoảng 300 con sếu đầu đỏ về kiếm ăn…, so với năm 1999 giảm 100 con.”Sáu năm sau – theo VnExpress.net, đọc được vào ngày 5 tháng 8 năm 2006 – Ban Giám Đốc Vườn Quốc Gia Tràm Chim, tỉnh Đồng Tháp cho biết:
“Số lượng sếu về ở trong khu vực vườn năm nay chỉ khoảng 100 con, bằng 1/8 so với cách đây 10 năm… môi trường và hệ sinh thái ở các nơi này đang thay đổi với tốc độ nhanh là nguyên nhân chính là ảnh hưởng tới việc trở về của đàn sếu.” 
Tháng rồi, báo Tuổi Trẻ (số phát hành ngày 22 tháng 22) ái ngại loan tin: “Năm 2020, lần đầu tiên Việt Nam không thấy sếu đầu đỏ bay về, trú lại tìm thức ăn. Giới khoa học quan sát và cho biết chỉ có 7 con bay qua khu vực Phú Mỹ (Kiên Giang) mà không hề đậu lại. Lý do là vì không còn chút đất lành nào cho đàn sếu trở về.”
Tôi mường tượng đến hình ảnh của những cánh chim mong manh, lượn vòng ngập ngừng – đôi ba lần – trên một vùng đất hoang vu, rồi vỗ cánh… bay luôn mà không dưng (chợt) thấy não lòng. Chúng đã quyết định đi luôn, không trở lại nơi xưa chốn cũ nữa. Những thân sếu mỏng mảnh sẽ tiếp tục xoãi cánh đến tận nơi đâu, sẽ rã cánh ở phương trời nào vô định? 
Bao lâu nữa thì hệ thống môi sinh nơi quê hương tôi sẽ bị hủy hoại, đến độ không sinh vật nào có thể sống được ở nơi này? Khi cái vòng sống liên tục vô thủy vô chung đó có một mắt xích bị hỏng, khi môi trường sinh thái ở một nơi nào đó bị mất quân bằng, có bao nhiêu sinh vật sẽ bị ảnh hưởng – và bị ảnh hưởng tận cùng rốt ráo ra sao? 
Sự hiểu biết quá hạn chế của tôi về khoa sinh vật học, chỉ khiến cho những câu hỏi này làm dài thêm… những đêm khó ngủ. Là người tôi cũng chỉ là một sinh vật tầm thường, yếu đuối, nhỏ bé – như như con chim, con bướm. Có thể tôi cũng được thiên nhiên qui định làm tròn một cái vòng sống vĩ đại nào đó nhưng đã không chu toàn đuợc điều này. Kiếp sống của tôi, không may, nằm trong một cái mắt xích bị hở. Mùa Đông năm nay khí hậu ở California có vẻ bất thường, nhiều đêm (không dưng) trời trở gió. 
Hen suyễn khiến tôi thức giấc. Nằm thoi thóp thở ở một góc trời xa lạ, tôi bỗng nhớ đến những con sếu đỏ đầu đã thôi bay về Đồng Tháp mà chợt thấy xót xa cho kiếp sống lao đao của những sinh vật kém may mắn hơn mình. Tôi cũng đã quyết định không về và (may mắn) vẫn còn một nơi để ở. Những con sếu đầu đỏ ở quê hương tôi, tiếc thay, không có cái may mắn đó!
24/09/2009 – 05/01/2021


Ăn nhậu và nhận quà là “truyền thống” của các quan nhà sản!

– Nhân tết Tân Sửu (2021) sắp đến, lại nói về việc ăn nhậu và tặng quà của các quan nhà sản thời nay.

Việc ăn nhậu và tặng quà đã trở thành truyền thống lâu đời, đã ăn sâu trong tiềm thức của các quan nhà sản. Không một cấp chính quyền nào, không một điều luật nào có thể ngăn cấm được việc này.
Về ăn nhậu: Đối với họ, ăn nhậu chỉ tốn hai thứ: Đó là tiền bạc và thời gian. Về tiền bạc thì những đồng tiền này không phải do mồ hôi công sức của họ làm ra, nên họ cứ tiêu xài vô tư, thoải mái mà không hề xót, không bị hạn chế và sợ tốn kém. Để thanh quyết toán, họ lấy chỗ nọ đập chỗ kia, gọi là điều tiết ngân sách. Lẽ ra những đồng tiền này được dùng để tu sửa đường giao thông nông thôn, hay các công trình phục vụ dân sinh, thì lại được dùng để trả nợ cho các nhà hàng quán nhậu.
Về thời gian thì họ là “con trời”, nên không bị ai quản lý và không ai dám đụng đến.
Nhưng ăn nhậu để dẫn đến nợ nần đầm đìa và triền miên, hết năm này qua năm khác, đến nỗi họ phải kêu cứu cấp trên cứu giúp, hoặc để các quán xá phải viết đơn đòi nợ, thì các quan Nghệ An là số một.
Báo Dân Việt ra ngày 24/01/2021 có bài nói về tình trạng ăn nhậu dẫn đến nợ nần triền miên của các quan huyện huyện Quỳ Châu (Nghệ An) với tựa đề:
“Tờ trình xin thanh toán 81 triệu đồng tiền rượu: Huyện Quỳ Châu lên tiếng”.
Theo đó: “Vụ việc văn phòng HĐND-UBND huyện Quỳ Châu (Nghệ An) làm tờ trình xin 80 triệu đồng để thanh toán tiền rượu tiếp khách hơn 3 năm qua khiến dư luận xôn xao”.
Ngày 23/1, trên mạng xã hội lan truyền “Tờ trình” của Văn phòng HĐND – UBND huyện Quỳ Châu (Nghệ An) về việc xin chủ trương thanh toán tiền rượu phục vụ cơ quan HĐND – UBND của huyện này. Theo nội dung tờ trình, từ năm 2018 đến nay, Văn phòng HĐND – UBND huyện đã mua rượu để phục vụ công tác tiếp khách của HĐND – UBND huyện. Cụ thể, năm 2018 là 20 triệu đồng (phần HĐND chưa thanh toán); năm 2019 là 35,5 triệu đồng (của HĐND và UBND); năm 2020 là 25 triệu đồng (cả HĐND – UBND). Tổng số tiền chưa thanh toán là 81.750.000 đồng.
“Văn phòng HĐND – UBND huyện xin trình chủ trương thanh toán số tiền trên. Kính đề nghị Thường trực HĐND, Thủ trưởng cơ quan chính quyền UBND huyện xem xét, quyết định”, tờ trình ghi rõ.
Phía dưới tờ trình có ghi phần duyệt lãnh đạo do ông Lô Thanh Luận, Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy Quỳ Châu với bút phê: “Nhờ UBND huyện Quỳ Châu hỗ trợ thanh toán 20 triệu đồng. Số còn lại, đề nghị Văn phòng HĐND-UBND phối hợp kế toán làm thủ tục thanh toán”.
Trao đổi với báo chí về số tiền rượu bị nợ của văn phòng HĐND- UBND hơn 81 triệu đồng trong 3 năm qua, ông Lô Thanh Luận cho rằng: “Trong một năm, huyện Quỳ Châu có một vài lễ hội lớn, như lễ hội Hang Bua… Những ngày này các đoàn khách đến cũng nhiều. Khi tiếp khách, chúng tôi không uống rượu của quán mà đặt mua rượu từ người quen của cán bộ văn phòng HĐND – UBND nấu, sau đó đưa về ngâm để uống; nên chưa thanh toán khoản này, bây giờ văn phòng làm tờ trình xin chủ trương để thanh toán cho người ta”.(1)
Qua sự việc này nổi lên mấy điểm đáng lưu ý như sau:
1- Tuy rằng ông Phó bí thư Thường trực Huyện ủy Quỳ Châu Lò Thanh Luận tìm cách lấp liếm rằng, trong một năm có một số lễ hội lớn. Nhưng ổng chỉ đơn cử một lễ hội duy nhất là lễ hội Hang Bua.
2- Đây là số tiền rượu mà huyện nợ các gia đình cán bộ. Vậy những lần nhậu ở quán và đã thanh toán và chưa thanh toán là bao nhiêu?
3- Đây là tiền nợ của năm 2018 chưa trả. Vậy số tiến năm 2018 đã trả là bao nhiêu?
4- Dù là tiền ngân sách hay lấy từ nguồn nào thì đây vẫn là tiền mồ hôi nước mắt của dân còng lưng mòn mỏi chắt lọc từng đồng để nộp thuế cho các quan phè phỡn ăn nhậu. Mà truyền thống của các quan nhà ta, là sau khi nhậu xong mới gọi là tăng 1. Còn tăng 2, tăng 3 là các quán karaoke có tay vịn, là những điểm giải quyết nhu cầu sau khi no cơm ấm cật thì bao nhiêu?
5- Đây là tiền rượu, còn tiền mồi những thứ sơn hào hải vị, những cao lương mỹ vị thượng hảo hạng khác là bao nhiêu?
Tháng 4 năm 2019, một số nhà hàng ở huyện Tương Dương – Nghệ An phản ánh việc họ bị huyện nợ các khoản tiền liên quan đến ăn uống, tiếp khách lên tới cả tỉ đồng, như báo Tuổi Trẻ ra ngày 6/03/2019 đã phản ánh.
Theo sổ sách từ các nhà hàng, Văn phòng huyện Tương Dương từ năm 2011 đến 2015 nợ các nhà hàng trên địa bàn với số tiền lớn. Cụ thể, nợ nhà hàng Lễ Quế 1,4 tỉ, nợ nhà hàng Vinh Phượng hơn 1 tỉ đồng… Điều đáng nói, Tương Dương là một trong những huyện nghèo nhất của Nghệ An.
Năm 2018, tại huyện Kỳ Anh (Hà Tĩnh) nhiều chủ cửa hàng đã tố lãnh đạo xã tổ chức ăn nhậu và ghi sổ nợ từ 2014 đến 2017. Trong đó, UBND xã Kỳ Tân, nợ 31 triệu đồng; UBND xã Kỳ Thư, nợ 111 triệu đồng, còn những xã nợ trên dưới 10 triệu khá nhiều, như báo Lao Động ra ngày 18/07/2018 đã phản ánh.
Nhưng một huyện nghèo như huyện Yên Định tỉnh Thanh Hóa nợ tiền ăn nhậu, tiếp khác và mua sắm cá nhân đến hơn 50 tỷ đồng, đến nỗi Bí thư và Chủ tịch huyện bị cách chức là chuyện không bình thường. Như Báo Tiền Phong ngày 31/7/2020 đã phản ánh với bài: “Bí thư, Chủ tịch bị cách chức vì huyện nợ hơn 50 tỷ đồng chi tiêu”. 
Vì sao họ dám “vung tiền qua cửa sổ” để chi tiêu vào những cuộc nhậu nhẹt như vậy? Vì Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật cán bộ, công chức và Luật viên chức vào chiều 25/11/2019”. Theo đó: “Cán bộ bị kỷ luật không bị ‘truất lương hưu’, chỉ ‘xóa tư cách chức vụ đã đảm nhiệm’”.
Vì vậy dù có ăn nhậu hay vơ vét để đến bị kỷ luật đi nữa, thì sau khi “hạ cánh”, họ đã có lá chắn vững chắc bảo đảm quyền lợi của họ về sau.
Dù ở Thanh Hóa, Nghệ An hay Hà Tĩnh v.v… thì dứt khoát tiền nợ dân là họ phải trả, chứ không thể nuốt được. Nhưng họ trả bằng cách nào thì có trời mới biết. Điều chắc chắn là họ không bao giờ phải bỏ tiền túi ra.
Đó là mới chỉ nói đến tiền ăn nhậu bị xì ra. Còn số không bị lòi ra trong một năm của cả nước là bao nhiêu?
Đó là mới chỉ tiền ăn nhâu, còn tiền trang trải cho quà biết quan trên mỗi dịp tết đến xuân về là bao nhiêu?
Theo Quyết định 64/2007/QĐ-TTg, trong trường hợp sau CB, CC, VC được nhận quà biếu, quà tặng mà không bị coi là vi phạm: Tại khoản 4, điều 12 của Quy chế cũng chỉ rõ, trong trường hợp CB, CC bị ốm đau, tai nạn hoặc nhân dịp hiếu, hỷ, lễ, Tết truyền thống thì được nhận quà dưới 500.000 đồng. Như vậy, căn cứ trên cho thấy, trong dịp Tết nguyên đán, CB, CC được nhận quà tặng dưới 500.000 đồng. Nhưng Quyết định không quy định số lần tặng bao nhiêu là vi phạm. Và ai là kẻ kiểm tra trong bao thư xem họ tặng số tiền có vượt quá quy định không?
Đối với cán bộ công chức, ai không tặng quà và tặng không “đẹp lòng” xếp thì hãy liệu cái thần hồn.
Nhà yêu nước Trương Công Định, khi trả lời Phan Thanh Giản về việc bãi binh chống Pháp, ông từng có câu nói nổi tiếng như sau: “Triều đình nghị hòa là việc của triều đình. Còn việc của Định thì Định cứ làm”.
Tóm lại việc quy định hạn chế ăn nhậu hay tặng quà là việc của… Thiên đình. Còn thực hiện là của người trần thế. Dù dư luận hay báo chí có ồn ào mấy cũng bằng thừa.
Chú thích:


Tù nhân lương tâm Việt Nam như “cá nằm trên thớt”

dịch – Lời dẫn của người dịch: Hôm qua ngày 21/1 Nghị Viện Âu Châu đã bỏ phiếu thông qua Nghị quyết về tình hình nhân quyền ở Việt Nam, đặc biệt là trường hợp Phạm Chí Dũng, Nguyễn Tường Thụy, Lê Hữu Minh Tuấn. Nhưng đáng thất vọng là Nghị quyết này cũng chỉ kêu gọi mà không có biện pháp trừng phạt nào cả!

Trước đó 3 ngày, tờ The Diplomat ngày 18/1 đã đăng bài viết sau đây của cô Judith Bergman, nhà văn, luật sư và là nhà phân tích chính trị.
Bài báo trên tờ The Diplomat ngày 18/1/2021
*
Các đối tác hàng đầu bao gồm Hoa Kỳ và Liên minh Châu Âu có thể và cần làm nhiều hơn nữa để ngăn cản sự đàn áp khốc liệt của Việt Nam đối với những người bất đồng chính kiến.
“Chúng tôi như cá nằm trên thớt, luôn sẵn sàng bị bắt”, nhà báo và là nhà bất đồng chính kiến Phạm Chí Dũng nói hồi năm 2015. “Cho đến năm 2012, nếu bạn bị bắt, bạn sẽ phải ngồi tù từ 10 đến 15 năm. Bây giờ, nhờ áp lực quốc tế về nhân quyền, bạn bị 2 đến 3 năm”.
Ngày 5/1/2021, Việt Nam tuyên án Dũng 15 năm tù về tội “Tuyên truyền chống nhà nước”. Hai đồng nghiệp của anh ấy bị 11 năm. Rõ ràng là “áp lực quốc tế về nhân quyền” đã tan biến.
Điều còn lại là một chế độ, theo Tổ chức Theo dõi Nhân quyền, trong năm 2020 Việt Nam “tiếp tục vi phạm một cách có hệ thống các quyền dân sự và chính trị cơ bản. Chính phủ, dưới chế độ độc đảng của Đảng Cộng sản Việt Nam, đã thắt chặt các hạn chế đối với quyền tự do ngôn luận, lập hội, hội họp ôn hòa, phong trào và tôn giáo… Những người chỉ trích Chính phủ hoặc Đảng phải đối mặt với sự đe dọa của công an, sách nhiễu, hạn chế di chuyển, tấn công thân thể, bắt giữ và giam giữ tùy tiện và bỏ tù”.
Dũng dự đoán một cách kỳ lạ về bản án của chính mình. Trong một video hồi tháng 11 năm 2019, ông đã thỉnh cầu Liên minh châu Âu hoãn việc phê chuẩn các Hiệp định Bảo hộ Đầu tư (IPA) và Thương mại Tự do (EVFTA) mà họ đã ký với Việt Nam, cho đến khi tình hình nhân quyền của đất nước, vốn đã xấu đi đáng kể vào thời điểm đó, được cải thiện. “Chế độ có thể sẽ bỏ tù nhiều người bất đồng chính kiến hơn sau khi EU phê chuẩn EVFTA và IPA [các hiệp định]”, Dũng nói. “Những nhà bất đồng chính kiến nổi tiếng phản đối EVFTA do thành tích nhân quyền kém của Việt Nam và những người đứng lên chống Trung Quốc sẽ nhận án tù nặng nề”. Ngay sau khi thực hiện video này, Dũng đã bị bắt.
EU đã phê chuẩn các hiệp định vào tháng 2 năm 2020, phớt lờ lời thỉnh cầu của Dũng và lời kêu gọi của 28 tổ chức phi chính phủ và tổ chức nhân quyền hoãn phê chuẩn hiệp định cho đến khi Việt Nam đồng ý đáp ứng các tiêu chuẩn cụ thể để bảo vệ nhân quyền. EU cũng bỏ qua đánh giá của Tổ chức Theo dõi Nhân quyền rằng việc phê chuẩn các thỏa thuận sẽ “gửi đi một thông điệp khủng khiếp rằng cam kết trước đây của Liên minh châu Âu về việc sử dụng thương mại như một công cụ thúc đẩy nhân quyền trên toàn cầu là không còn đáng tin cậy nữa”.
Uy tín của Liên minh Châu Âu đã không bị đánh giá bởi phản ứng của họ đối với các xác tín của các nhà báo. Thay vì lên án Việt Nam, EU rụt rè gọi các bản án nặng là “diễn biến tiêu cực” và bày tỏ “quan ngại” về mức độ nghiêm trọng của các bản án.
EU cũng nhấn mạnh rằng họ không có kế hoạch gây áp lực đáng kể đối với Việt Nam, chẳng hạn như đình chỉ các ưu đãi thương mại hoặc sử dụng luật trừng phạt nhân quyền toàn cầu Magnitsky đã được thông qua gần đây, cho phép EU nhắm mục tiêu vào các cá nhân, thực thể và cơ quan có trách nhiệm đối với con người mà vi phạm nhân quyền.
“Chúng tôi đã đối thoại chính thức với Việt Nam và chúng tôi sẽ cố gắng tìm ra giải pháp cho vấn đề này trong khuôn khổ cuộc đối thoại đó. Đó là lựa chọn ưu tiên của chúng tôi. Các biện pháp trừng phạt chỉ là một công cụ, bản thân chúng không phải là mục tiêu”, phát ngôn viên của Ủy ban châu Âu Peter Stano cho biết trong một cuộc họp báo trực tuyến vào ngày 6/1/2021.
“Nếu sau đó có vi phạm nghiêm trọng và vi phạm có hệ thống nhân quyền, thì trong trường hợp của Việt Nam cũng như với các nước khác, chúng tôi có thể đình chỉ ưu đãi thương mại, nhưng đó là phương sách cuối cùng”, bà Miriam Garcia Ferrer, người phát ngôn Ủy ban châu Âu về Thương mại và Nông nghiệp, nói thêm.
Ông Stano có lẽ đang đề cập đến cuộc đối thoại nhân quyền thường niên của EU với Việt Nam, một cuộc đối thoại đã diễn ra từ nhiều năm nay, nhưng dường như không đạt được gì hơn ngoài việc cung cấp cho Hiệp định Thương mại Tự do EU-Việt Nam một giá trị hợp pháp. “Tám cuộc đối thoại nhân quyền giữa EU và Việt Nam trong những năm gần đây [đã] không có kết quả”, ông Dũng nói hồi tháng 11 năm 2019. “Tôi ước tính khoảng 95% các khuyến nghị của EU về nhân quyền bị phớt lờ hoặc đưa ra những lời hứa sai”.
Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã công bố một tuyên bố tương tự, trong đó nói rằng họ “quan tâm sâu sắc” đến việc Việt Nam kết án và tuyên án ba nhà báo và kêu gọi chính quyền Việt Nam “trả tự do cho tất cả những người bị giam giữ vô cớ và cho phép tất cả các cá nhân ở Việt Nam được tự do bày tỏ quan điểm của mình mà không sợ bị trả thù”. Mỹ thận trọng về việc có thể làm cho Việt Nam xa lánh mình, một đối tác quan trọng trong việc chống lại ảnh hưởng của Trung Quốc trong khu vực. Tuy nhiên, mặt khác, Mỹ lại coi Việt Nam là “kẻ thao túng tiền tệ” sau khi điều tra các hoạt động tiền tệ của nước này. Một cuộc điều tra về các thực thi nhân quyền ở Việt Nam đáng lẽ ra phải được tiến hành từ lâu, kết quả của nó sẽ dẫn đến những biện pháp mạnh mẽ chứ không chỉ lời nói đơn thuần.
“Liên minh châu Âu vẫn luôn cam kết tôn trọng, bảo vệ và thực hiện nhân quyền cho tất cả mọi người”, đại diện cấp cao EU Josep Borrell cho biết trong một tuyên bố vào ngày Quốc tế Nhân quyền 10/12 vừa qua. “Giá trị cơ bản này sẽ tiếp tục hướng dẫn mọi hành động của chúng tôi. Không ai bị bỏ rơi, không có quyền con người nào bị làm ngơ”.
Ít nhất 238 tù nhân lương tâm được cho là vẫn bị chính quyền Việt Nam giam giữ trong những điều kiện kinh khủng, bị tra tấn và đối xử tệ bạc, và thường xuyên bị từ chối chăm sóc y tế, thiếu nước sạch và không khí trong lành. Họ không cần những lời tuyên bố. Họ cần những biện pháp cụ thể./.
Nguồn: 


Bài học gì cho người Việt từ bầu cử tổng thống Hoa Kỳ?

– Một nền dân chủ lâu đời, bén rễ hơn ba trăm năm qua của một cường quốc hàng đầu thế giới bỗng dưng trở thành nền “cộng hòa chuối” (banana republic)(1) qua cuộc bầu cử tổng thống 2020, với tố cáo gian lận, kiện tụng rồi trở thành bạo loạn sau đó, tưởng như chỉ có thể xảy ra ở một nước độc tài kém phát triển nào đó ở Nam Mỹ hay mãi tận châu Phi xa xôi. Tại sao lại có thể xảy ra những chuyện kỳ lạ như thế với một nền dân chủ được xem như mẫu mực để thế giới noi theo? 

Điều gì biến nền dân chủ lâu đời này, dù trải qua những thách đố khắc nghiệt, nhiều lần tưởng chừng như gục ngã đã hiên ngang vươn dậy, tiếp tục đi tới rồi bỗng một sớm một chiều lại như thụt lùi đứng chung với hàng ngũ các quốc gia chậm tiến?
Đây là bài học vô giá đối với những người mong muốn dân chủ hoá Việt Nam và cho cả những đảng viên cộng sản thức tỉnh muốn quay về với dân tộc để cùng toàn dân thực hiện công cuộc dân chủ hoá đất nước trong ôn hoà bằng tình anh em.
Muốn hiểu tình trạng này và qua kinh nghiệm đó, tìm cách xây dựng một nước Việt Nam mới, chúng ta cần đi ngược giòng lịch sử để hiểu cách vận hành của hệ thống chính trị Mỹ.
Cân bằng dẫn tới giằng co
Năm 1787, lãnh đạo các tiểu bang đầu tiên của Hoa Kỳ họp nhau lại viết bản hiến pháp cho một quốc gia mới. Họ muốn một chính quyền mạnh và công bằng nhưng tránh cảnh nhà nước lạm dụng quyền lực, đồng thời phải bảo vệ quyền tự do cá nhân mà hệ thống tam quyền phân lập ra đời. Hệ thống chính trị này là một sáng kiến tuyệt vời nhằm thực hiện công việc nêu trên, với dụng ý cân bằng quyền lực giữa ba nhánh hành, lập và tư pháp trong chính quyền.
Các đảng phái đứng ra tổ chức cho dân chúng bầu cử thành lập chính quyền. Người dân làm chủ đất nước thông qua đại diện các chính đảng. Các đảng đưa đại diện của mình ra cho dân bầu vào những cơ quan quyền lực cao nhất đất nước: quốc hội (lập pháp) và hành pháp. Tổng thống đề cử chín vị thẩm phán vào tối cao pháp viện (tư pháp), cần được quốc hội chuẩn thuận.
Mặc dù với ý định tốt của buổi ban đầu là ba nhánh phải cân bằng và kiểm soát lẫn nhau nhưng trên thực tế, ngay trong quốc hội đã có sự tranh chấp quyền lực giữa hai đảng chính – Dân Chủ (DC) và Cộng Hoà (CH) – đảng nào cũng muốn cán cân nghiêng về phía mình. Nếu một trong hai đảng kiểm soát cả hai viện thượng và hạ (đa số trong quốc hội), chính sách của đảng dễ được thông qua. Trong trường hợp tổng thống (hành pháp) cũng là người cùng đảng nắm đa số ở quốc hội, các chính sách của đảng cũng dễ dàng được thực hiện. Tuy nhiên, nhiều người lo ngại rằng khi một đảng kiểm soát cả hai nhánh hành và lập pháp, chính sách thường nghiêng nhiều về lý tưởng của đảng – CH được cho là thiên về giới giàu, DC đi với nhà nghèo – sự phát triển sẽ mất cân đối và dễ tạo ra khuynh hướng lạm quyền. 
Ngược lại, nếu tổng thống là người thuộc đảng đối lập với đảng nắm đa số trong quốc hội, tổng thống trở thành một loại ‘vịt què’ (lame duck president), khó có thể làm được gì có hiệu quả lớn lao. Tranh giành quyền lực giữa hai đảng khiến nền dân chủ Mỹ trở thành một loại “dân chủ giằng co”. Chưa kể, khi chính quyền (hành pháp) thay đổi giữa đảng này sang đảng kia, chính sách đối ngoại (kể cả nội trị) thường xoay ngược 180 độ, như trường hợp giữa Obama và Trump. Những thay đổi này dễ đem lại xáo trộn, thậm chí hỗn loạn và có thể nguy hiểm cho đất nước, nhất là khi quốc gia trong thời kỳ chiến tranh.
Yếu tố Trung Quốc
Ngoài các lý do khác, một trong những nguyên do quan trọng khiến ông Trump thắng cử trước bà Hillary Clinton năm 2016 là vì trong ba thập niên toàn cầu hoá, lợi dụng giá lao động rẻ, rất nhiều hãng xưởng đã dọn sang Trung Cộng (TC) khiến công nhân mất việc, ông Trump hứa sẽ đem công việc về lại Mỹ. Tiến trình toàn cầu hoá đòi hỏi những tay nghề chuyên môn cao mới có thể tìm được việc làm vững chắc, lương cao để bảo đảm đời sống. Tiến trình đó đã khiến đời sống của hàng chục triệu người thuộc giới trung lưu vừa và thấp (công nhân cổ xanh và lao động chân tay), vốn từng là một phần của nền tảng, xương sống của nền dân chủ Mỹ lâm vào hoàn cảnh khó khăn. Có thể vì lý do tài chánh và tuổi tác, họ khó có thể trở lại trường để được tái huấn luyện nhằm tìm được việc đủ để nuôi sống gia đình. Khoảng cách giàu nghèo giữa người có bằng đại học và người ít học ngày càng sâu rộng, dễ tạo những bất ổn xã hội. Theo một bài báo trên CNBC ngày 19 tháng 01 năm 2019, chỉ 40% dân Mỹ mới có nổi một ngàn đô tiêu xài trong trường hợp khẩn cấp, như vào bệnh viện hay phải sửa xe.(2)
Tình trạng nói trên đã tạo ra “hai nước Mỹ”. Một, bao gồm các tiểu bang với những người khá giả ven bờ biển; một, gồm những bang nghèo trong nội địa, nằm ở trung Mỹ và miền nam. Ông Trump biết cách khai thác nỗi bất mãn của giới này qua ba thập niên toàn cầu hoá nên trở thành tổng thống thứ 45 của Hoa Kỳ. Ông ta đã tạo ra sự tin tưởng cho thành phần trung lưu bằng hứa hẹn đem việc làm về lại Mỹ, chống Trung Cộng vì đã tạo ra tình trạng bất cân bằng trong cán cân mậu dịch giữa hai nước, chưa kể các cáo buộc đánh cắp trí tuệ, đòi chuyển giao kỹ thuật từ các hãng Hoa Kỳ làm ăn ở TC, bảo vệ biên giới phía nam, từ bỏ vai trò cảnh sát quốc tế miễn phí v.v…
Bạo loạn 06/01 cho thấy các thành phần bị “bỏ rơi” trong tiến trình toàn cầu hoá đã không được các chính trị gia hai đảng quan tâm giải quyết, hoặc họ cũng tìm cách giải quyết nhưng không thực hiện được vì tình trạng “dân chủ giằng co” giữa hai đảng nói trên. Những lời kêu gọi “Stop the Steal” của ông Trump cũng như khuyến khích đám đông biểu tình tiến về toà nhà quốc hội gây áp lực trong ngày chuẩn thuận tổng thống mới tạo ra bạo loạn (do cả những nhóm cực hữu tác động) đã là giọt nước tràn ly của nỗi bất mãn và hệ thống chính trị đảng tranh (Hoa Kỳ nói riêng, châu Âu nói chung), đòi hỏi một sự cải tổ sâu rộng để nền dân chủ vốn đã bén rễ ba trăm năm qua tiếp tục có những bước vững mạnh tới trước.
Người Việt học được gì qua kinh nghiệm đắt giá đó, thay vì gọi nhau là “cuồng Trump” hay “thổ tả” đến từ sự tranh chấp quyền lực hai đảng ở Mỹ?
Cơ chế đan quyền
Qua rất nhiều sự kiện mà cao điểm là hai cuộc đàn hặc Tổng thống Clinton hai mươi năm trước và Trump ngày nay, ta thấy hệ thống chính trị dựa trên tranh chấp đảng phái mà quyền lợi các chính đảng đôi khi quan trọng hơn quyền lợi toàn dân, trong đó có đông đảo thành phần trung lưu bị mất việc qua cuộc toàn cầu hoá, tiếng nói của họ không được các chính trị gia lắng nghe, đời sống khó khăn của họ không được quan tâm giải quyết, hệ thống chính trị đảng tranh với nền dân chủ giằng co cần phải được tu chỉnh sâu rộng.
Qua sự phát triển của lịch sử, người dân Mỹ hiện làm chủ đất nước một cách gián tiếp qua đại diện các chính đảng, tiếng nói của họ cũng phải thông qua các chính đảng mới tới các cơ quan quyền lực cao nhất, rất nhiều khi không được lắng nghe trọn vẹn, lại còn bị nạn tranh chấp quyền lực lẫn quyền lợi ảnh hưởng, người dân chưa thực sự nắm quyền, nhất là quyền quyết định lấy đời sống mình qua chính sách quốc gia chung.
Theo tôi, ta hãy học lại bài học của cha ông trong giai đoạn cường thịnh nhất dưới hai triều Lý, Trần. Hệ thống quyền lực được tổ chức thông qua một cơ chế tạm gọi là “đan quyền” giữa trung ương và địa phương, tương tự hệ thống liên bang Hoa Kỳ, có thể tóm gọn bằng cụm từ “trung ương tập quyền, địa phương phân quyền”. “Tập quyền” ở đây không có nghĩa dân chủ tập trung kiểu cộng sản, mà là những gì thuộc về toàn dân thì được tập trung quyết định ở trung ương cho nhanh gọn, nhưng với địa phương thì phân quyền qua câu ca dao phép vua thua lệ làng, bởi đời sống ở địa phương khác xa trung ương, phải do chính người dân địa phương quyết định mới hợp lý. Vì vậy mà phép vua cũng phải dừng lại trước cổng làng.
Những gì liên quan đến đời sống toàn dân? Có thể liệt kê một số như kinh tế, quốc phòng, an ninh, ngoại giao v.v… Điểm khác biệt quan trọng so với hệ thống chính trị của Mỹ là cần một sự thống nhất ý chí toàn dân ở trung ương để có những quyết định nhanh gọn và dễ dàng, do không bị tình trạng tranh chấp đảng phái giằng co gây ra. Khi thiếu vắng tranh chấp quyền lợi phe đảng, các quyết định sẽ dễ thuận theo khuynh hướng quyền lợi toàn dân hơn.
Đời sống chính trị là đời sống của toàn dân, nào phải chỉ của các chính đảng mà dân không được góp phần quyết định? 
Ngày nay, xã hội dân sự (civil society) với đủ mọi ngành nghề chuyên môn đã trở thành đời sống của nhân dân, nhưng xã hội dân sự đó chưa được tham gia vào việc quyết định các chính sách quốc gia mà vẫn phải chờ đợi các dân biểu và nghị sĩ, đa phần là thành viên các chính đảng. Cũng vì lý do đó mà quyền lợi của tầng lớp trung lưu bị “bỏ rơi” nói trên trong công cuộc toàn cầu hoá không được quan tâm đúng mức. 
Xã hội dân sự cần được tham gia vào sinh hoạt chính trị quốc gia để tiếng nói người dân được trực tiếp lắng nghe và thực hiện. Toàn dân, thông qua xã hội dân sự càng được tham dự vào hệ thống chính trị bao nhiêu, quyền dân càng cao bấy nhiêu. 
Toàn dân, nhìn theo hệ thống chính trị và hành chánh có thể thấy hai cơ cấu. Một, là cơ cấu chính trị của dân tại từng địa phương, cụ thể là từ làng đến xã, huyện, tỉnh. Hai, là các tổ chức dân sự theo hoạt động chuyên ngành, từ văn hoá đến kinh tế, chính trị. Các đảng phái nằm trong các tổ chức dân sự này. Tóm lại, toàn dân tham gia công việc quốc gia qua hai hình thức, hành chánh địa phương và xã hội dân sự.
Các tổ chức chính trị cần thay đổi chức năng để trở thành một thành viên của xã hội dân sự. Vai trò xã hội dân sự càng trở nên quan trọng thì vai trò đảng phái trong hệ thống chính trị nhẹ đi, cuối cùng là hoà mình vào đời sống toàn dân. Tất nhiên, sẽ vẫn có tranh cãi và tranh chấp trong hệ thống quyền lực cao nhất (quốc hội), nhưng sẽ được giải quyết nhanh gọn, bớt tình trạng giằng co và các quyết định dễ có khuynh hướng dựa trên quyền lợi toàn dân, thay vì trên các nhóm quyền lợi, hoặc bị đảng phái thao túng.
Tổ chức hệ thống chính trị và hành chánh được như vậy thì người dân sẽ thực sự nắm quyền. Quyền dân càng cao, lực nhà nước càng mạnh.
Tất cả các ngành nghề, tập thể trong xã hội do dân tự thành lập vì quyền lợi chung của tập thể đều có thể cử người vào các cuộc bầu cử từ trung ương đến địa phương. Tất cả đều được bình đẳng cơ hội đóng góp vào sinh hoạt chính trị quốc gia.
Vậy vai trò của nhà nước sẽ là gì? Nhà nước sẽ chuyển đổi từ cai trị (ruling) hiện nay sang điều hành và phối hợp (execution and cooperating), tạo điều kiện cho nhân dân, thông qua xã hội dân sự tự tổ chức và quyết định lấy đời sống dân sinh lẫn đời sống chính trị của mình. 
Ví dụ, các nông dân tự tập họp với nhau, thành lập các tổ hợp nông nghiệp nhằm giúp đỡ nhau thăng tiến đời sống và ngành nghề. Họ bàn nhau cách chọn giống, phân bón, gặt hái, tiếp thị, xâm nhập thị trường quốc tế v.v… Đó có thể coi là ‘dân chủ trực tiếp’ – nhân dân trực tiếp quyết định lấy đời sống mình. Chính vì là nông dân, họ hiểu tất cả các khó khăn cũng như ưu, khuyết điểm trong ngành nghề để có những quyết định sáng suốt và hợp lý, hữu hiệu nhất. ‘Bộ Nông nghiệp’ cần tạo tất cả các điều kiện thuận lợi để nông dân thực hiện các điều đó, thay vì ra lệnh cho nông dân phải làm thế này thế kia một cách duy ý chí và kém hiệu năng. 
Khi cả xã hội dân sự đều hoạt động theo cách thức ấy sẽ tạo ra một xã hội linh động nhịp nhàng, ai vào việc nấy, toàn dân trực tiếp tham gia làm chủ mình, làm chủ xã hội và đất nước. Nhân dân sẽ thực hiện được các tiêu chí cao đẹp của hai hệ thống chính trị khác biệt đề ra: mình vì mọi người, mọi người vì mình, và một nền cộng hoà bởi dân, do dân và vì dân, hay khái niệm dân vi quý xuất hiện từ xa xưa.
Tổng hợp và thích ứng một cách sáng tạo
Một khi nhân dân và nhà nước thông lưu với nhau và là một, hệ thống chính trị sẽ khó bị các thế lực chính trị lũng đoạn tạo ra các rào cản, đôi khi trở thành bế tắc và hỗn loạn như chúng ta đang chứng kiến trong sinh hoạt chính trị Mỹ, dù đã được bén rễ cả ba trăm năm nay.
Dân Việt là một giống dân có tinh thần tổng hợp cao độ vì từng là nơi mà các nền văn minh gặp gỡ, từ xa xưa (Hoa-Ấn) cho đến ngày nay (thêm phương Tây). Chúng ta cần phải gấp rút học lại bài học tổng hợp của cha ông, chấp nhận khác biệt, kết hợp với đạo thống Tiên Rồng và sử thống Việt (cơ chế đan quyền) vốn từng tạo nên một quốc gia hùng vĩ dưới trời Đông Á thời Đại Việt 1000 (Lý-Trần) tồn tại trong năm trăm năm.
Liệu cháu con có noi gương được cha ông để từ bỏ hận thù, mọi thành phần dân tộc cùng góp sức tạo ra một thời kỳ hoàng kim mới của “Đại Việt 2000” ngày nay, thay vì bị lôi cuốn vào thế tranh chấp thương đau, trải dài từ đối đầu tư bản-cộng sản của Chiến tranh Lạnh, sang thế đối đầu đảng phái Cộng Hoà-Dân Chủ của một nền dân chủ đang cần được tu chỉnh để tiến hoá cao hơn nữa?
Chú thích:
(1) Cụm từ “cộng hòa chuối” được đặt ra vào năm 1901 bởi nhà văn người Mỹ, O. Henry (1862–1910).
(2) A $1,000 emergency would push many Americans into debt, truy cập ngày 17 tháng 01 năm 2021.


Thấy gì từ bài phát biểu của ông Hầu A Lềnh?

– Sáng 27/1, bên lề Đại hội XIII, ông Hầu A Lềnh, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó chủ tịch kiêm Tổng thư ký UBTƯ MTTQ VN đã thông tin với báo chí về công tác chuẩn bị nhân sự cho đại hội lần này.

Theo ông Lềnh: “công tác chuẩn bị nhân sự cho khóa XIII được Ban Chấp hành Trung ương khóa XII thực hiện nghiêm túc. Trong suốt nhiệm kỳ khóa XII, Trung ương đã xác định công tác này là rất quan trọng, là nhiệm vụ then chốt”.
“Các trường hợp đặc biệt chủ yếu đặc biệt về độ tuổi, còn đều đủ điều kiện, tiêu chuẩn, có sức khỏe, năng lực công tác”.

“Công tác chuẩn bị nhân sự khóa XIII được làm chặt chẽ, kỹ lưỡng và đảm bảo quy trình, các đồng chí được giới thiệu ra Đại hội XIII cơ bản đáp ứng tiêu chuẩn, đủ điều kiện, có năng lực, uy tín”,

“Với các trường hợp đặc biệt, nhiệm kỳ đại hội nào cũng có, được kế thừa kinh nghiệm của các Đại hội trước” (1)
Qua bài phát biểu này, có mấy vấn đề cần bàn như sau:
1.”Các trường hợp đặc biệt chủ yếu đặc biệt về độ tuổi, còn đều đủ điều kiện, tiêu chuẩn, có sức khỏe, năng lực công tác”.
Thế nào là có sức khỏe? Tiêu chuẩn sức khỏe ở đây là còn đủ sức khỏe về thể lực và năng lực để có thể đảm đương nhiệm vụ của mình khi được giao phó. Chỉ trừ những người đã chết mới không còn sức khỏe. Còn tất cả những người còn sống đều có sức khỏe cả. Nhưng vấn đề là sức khỏe như thế nào, mạnh hay yếu, có bị bệnh tật, kinh niên hay mãn tính không, có đủ điều kiện để hoàn thành nhiệm vụ hay không. Vì trách nhiệm và công việc của một vị Ủy viên TƯ, Bộ chính trị, hay trong hàng Tứ trụ là rất nặng nề. Phải vận động đầu óc và cơ thể nhiều mới hoàn thành nhiệm vụ và sáng tạo phát huy cái mới.

2. “Các đồng chí được giới thiệu ra Đại hội XIII cơ bản đáp ứng tiêu chuẩn”.
Cơ bản nghĩa là gì? Thế nào là cơ bản đáp ứng?
Khi thi công một công trình, như xây dựng một ngôi nhà, thi công một con đường…, khi khối lượng công việc đã hoàn thành được 85%, thì người ta nói rằng, công trình đó đã cơ bản hoàn thành.
Suy rộng ra, câu: “Các đồng chí được giới thiệu ra Đại hội XIII cơ bản đáp ứng tiêu chuẩn”. Có nghĩa là vẫn còn một số ít các đại biểu chưa đáp ứng tiêu chuẩn. Cả một cuộc đại hội chuẩn bị rình rang từ mấy năm nay, tiêu tốn biết bao nhiêu là công sức và tiền bạc, tại sao lại còn để lọt lưới như thế?
3. “Với các trường hợp đặc biệt, nhiệm kỳ đại hội nào cũng có, được kế thừa kinh nghiệm của các Đại hội trước”.
Nói như vậy có nghĩa là những gì cái ở đại hội trước có thì nay cũng phải học đòi bắt chước cho có? Việc toàn bộ đại biểu tham dự Đại hội XIII và khách mời được bố trí ăn, nghỉ tập trung trong suốt quá trình diễn ra Đại hội thì kế thừa từ đại hội nào? Người ta chỉ kế thừa cái hay, cái đẹp, cái tốt. Không ai bắt phải kế thừa cái ngoại lệ.
Có thể là vì ông Hầu A Lềnh là người dân tộc Mông, nên ổng chưa đủ ngôn ngữ phổ thông để chuyển tải đầy đủ và chính xác các ý kiến đã được bàn bạc?
Điều 17 lại được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng thông qua ngày 19 tháng 01 năm 2011 quy định: “Đồng chí Tổng Bí thư giữ chức vụ Tổng Bí thư không quá hai nhiệm kỳ liên tiếp”.
Tiếp theo hạn chế 2 nhiệm kỳ là hạn chế khung tuổi không quá 65 khi cơ cấu vào các chức vụ chủ chốt thuộc nhóm “tứ trụ”: TBT, CTN, TT, CTQH.
Đây có thể xem là một dấu mốc quan trọng nhằm hạn chế tham nhũng quyền lực. Hai nhiệm kỳ 10 năm là quá đủ thời gian để các vị thi thố tài năng, vắt kiệt sáng tạo và sinh lực để cống hiến.
Nếu áp dụng trường hợp đặc biệt cho người quá tuổi đã làm hai nhiệm kỳ lên tiếp, vừa vi phạm Điều lệ đảng, vừa là vắt cạn sức lực của các vị cao niên. Như vậy có còn là “nhân văn, nhân ái, nhân nghĩa, nhân tình và nhân đạo” không?
Việc Thủ tướng Malaysia 92 tuổi, Tổng thống Mỹ 78 tuổỉ là do người ta tranh cử tự do. Đã tranh cử tự do bằng lá phiếu của toàn dân thì không hạn chế tuổi tác, giới tính, dân tộc, tôn giáo, đảng phái.
Đất nước không thiếu người tài.
Thời đại này không còn là “nhân tài như lá mùa thu, tuấn kiệt như sao buổi sáng” nữa. Đất nước gần 100 triệu dân trùng điệp những người tài mà không cần ngoại lệ. Ngay trong hàng ngũ hơn 5 triệu đảng viên cũng có rất nhiều người tài mà không cần đến ngoại lệ.
Ở Đại hội 11 và 12 đã có một trường hợp ngoại lệ. Hãy chờ xem ở đại hội này có còn trường hợp ngoại lệ nữa hay không?
Chú thích:


Đảng XIII vẫn ù lì cộng sản-phản dân chủ

– Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng vẫn ngựa quen đường cũ khi ra lệnh “phải kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh”, “Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng” và “Tích cực đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực…”.

Ông Trọng đã tuyên bố như thế tại buổi khai mạc Đại hội toàn quốc XIII của đảng CSVN từ ngày 25/1 đến ngày 2/2 (2021).
Nhưng ba nhiệm vụ này không mới vì đã liên tục được Bộ Chính trị do ông Trọng cầm đầu thúc đẩy học tập và thực hành trong suốt 5 năm của Khóa Đảng XII. Tuy nhiên, một số không nhỏ đảng viên, nhất là cấp lãnh đạo từ cở sở lên trung ương đã quay lưng để “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong tư tưởng chính trị. Họ không còn coi Chủ nghĩa Cộng sản là cứu cánh đưa Việt Nam thoát khỏi lạc hậu để vươn lên xây dựng phú cường. Nhiều người đã công khai bài bác Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh lỗi thời, đi ngược lại tiến hóa của nhân loại. Một số không nhỏ khác cũng đã nghiêm khắc lên án đảng tiếp tục chống đổi mới chính trị để xóa đi chế độ “đảng cử dân bầu”.
Trong 5 năm qua, Ban Tuyên giáo Trung ương đã phối hợp với Tổng cục Chính trị Quân đội và ngành Công an tổ chức nhiều Hội nghị, mạn đàm và học tập chống suy thoái chính trị vì đảng sợ tan.
Vì vậy, trong Diễn văn “Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về các Văn kiện trình Đại hội XIII” sáng ngày 26/01 (2021), ông Trọng đã cao giọng chỉ đạo: “Tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta là phải kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia – dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đây là vấn đề mang tính nguyên tắc, có ý nghĩa sống còn đối với chế độ ta, là nền tảng vững chắc của Đảng ta, không cho phép ai được ngả nghiêng, dao động.”

Như vậy, nếu so với các kỳ Đại hội đảng trước thì có khác gì đâu. Từ thời ông Nguyễn Văn Linh, Tổng Bí thư khóa đảng VI, qua Đỗ Mười (Khóa VII), Lê Khả Phiêu (Khóa VII), Nông Đức Mạnh 2 khóa IX và X, sang tới ông Nguyễn Phú Trọng 2 Khóa XI và XII, tổng cộng 35 năm, Việt Nam Cộng sản vẫn dậm chân tại chỗ, dù Thế giới đã thay đổi và vươn lên cao.
Tham nhũng muôn năm
Bước sang lĩnh vực chống quốc nạn lãng phí, tham nhũng thì khi nào tình hình cũng “vẫn còn nghiêm trọng, phức tạp và tinh vi”, mặc dù chủ trương chống tham nhũng tận gốc từng được ông Trọng chỉ đạo trong mô thức gọi là “nhốt quyền lực vào lồng cơ chế”. . Ông nói: “Không chỉ kêu gọi suông, giáo dục tư tưởng suông. Phải bằng luật pháp. Như tôi đã nói là phải nhốt quyền lực vào trong lồng cơ chế, luật pháp” (báo Điện tử đảng, ngày 29/11/2017)
Vì vậy, với trách nhiệm là Trưởng ban Chỉ đạo phòng, chống Tham nhũng Trung ương, ông Trọng đã phát động phong trào “đốt lò” từ năm 2017. Theo tổng kết từ năm 2013 đến 2020, đảng đã kỷ luật hơn 110 cán bộ diện Trung ương quản lý (trong đó có 27 đồng người là Ủy viên Trung ương, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, bốn Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị). Nổi bật trong số này là Ủy viên Bộ Chính trị Đinh La Thăng đã bị ngồi tù.
4 lãnh đạo chủ chốt
Tuy nhiên, vì chuyện chống tham nhũng ở Việt Nam khi nào cũng chỉ “tiến được một bước” cho nên ông Nguyễn Phú Trọng mới nói tại Hội nghị toàn quốc tổng kết công tác phòng, chống tham nhũng giai đoạn 2013-2020 rằng: “Phòng, chống tham nhũng là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên, vừa cấp bách, vừa khó khăn, phức tạp, lâu dài; phải tiến hành kiên quyết, kiên trì, liên tục, “không ngừng”, “không nghỉ” ở tất cả các cấp, các ngành, các lĩnh vực…” (báo Nhân Dân, ngáy 12-12-2020)
Có lẽ vì tình trạng tham nhũng và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đang đe dọa sự sống còn của chế độ nên Ban Chấp hành Trung ương XII đã không muốn thay ngựa giữa đường và muốn ông Trọng ở lại thêm nhiệm kỳ Tổng Bí thư thứ ba cho mọi người yên tâm.
Nhưng ông Trọng lại thuộc “trường hợp đặc biệt” vì đã 77 tuổi và đã làm Tổng Bí thư 2 nhiệm kỳ (2011-2021). Điều lệ đảng chỉ cho phép làm 2 nhiệm kỳ. Nhưng vì trong số nhân sự cấp cao trong đảng hiện nay không ai có uy tín hơn ông Trọng nên họ đã đồng thanh yêu cầu ông tái cử vào Ban Chấp hành XIII và Bộ Chính trị, sau đó được Hội nghị Trung ương 15/khóa XII chọn là ứng viên Tổng Bí thư duy nhất của khóa đảng XIII.
Tuy nhiên, Ban Chấp hành Trung ương XIII phải đổi Điều lệ, hay thông qua một Nghị quyết để ông Trọng có thể giữ thêm nhiệm kỳ nữa.
Việc ông Trọng ở lại không gây ngạc nhiên, nhưng ai là người thay thế khi ông, có thể chỉ giữ Tổng Bí thư đến giữa nhiệm kỳ (2021-2026)? Nhân vật được nói đến nhiều trước ngày Đại hội đảng XIII là ông Trần Quốc Vượng, Bí thư Thường trục Trung Ương, 67 tuổi, quê ở Thái Bình, cánh tay mặt của ông Trọng, đột nhiên không được nhắc đến trong danh sách dự trù 4 Lãnh đạo then chốt.
Ngược lại, người thứ hai thuộc “trường hợp đặc biệt” được đặt vào vi trí Chủ tịch nước tương lai là Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, 66 tuổi, quê Quảng Nam. Chức Thủ tướng dự trù vào tay ông Phạm Minh Chính, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương, 62 tuổi, quê Thanh Hóa.
Trong khi, vẫn theo tin rò rỉ từ bên trong thì ông Vương Đình Huệ, Bí thư Thành phố Hà Nội sẽ làm Chủ tịch Quốc hội thay bà Nguyễn Thị Kim Ngân. Ông Huệ 63 tuổi, quê Nghệ An.
Người Nam-Trung cộng?
Nếu danh sách “tứ trụ” này đúng thì không có ai là người gốc miền Nam trong hàng ngũ lãnh đạo mới, kể từ năm 2016, khi Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng bị loại ra khỏi Bộ Chính trị và nghỉ hưu.
Cũng không có Phụ nữ nào được để cử ở cấp Lãnh đạo cao nhất.
Một ngạc nhiên khác là vai trò của Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh cũng lu mờ trước Đại hội XIII. Ông Minh, 61 tuổi, quê Nam Định, con cố Ngoại trưởng nổi tiếng Nguyễn Cơ Thạch (Phạm Văn Cương), đã giữ chức Bộ trường Ngoại giao từ năm 2011. Có tin nói ông được điều sang làm Phó Chủ tịch Quốc hội. Nếu đúng thì đây là hành động bị giáng cấp vì chức Phó ở Quốc hội chỉ ngồi chơi xơi nước là chính.
Nhưng cũng không thể loại bỏ có áp lực của Trung Cộng mà ông Nguyễn Phú Trọng phải nhượng bộ vì ông Minh, giống như cha ông, có lập trường chống Trung Cộng trong âm mưu khống chế Việt Nam và chiếm đóng biển đảo của Việt Nam ở Biển Đông. Cố Ngoại trướng Nguyễn Cơ Thạch đã bị Trung Cộng làm áp lực với Tổng Bí thư Đỗ Mười, loại ra khỏi Bộ Chính trị khóa đảng VII và mất luôn chức Bộ trưởng Ngoại giao.
Vì vậy, ông Thạch được nói đã phàn ứng: “Thế là một cuộc Bắc thuộc mới rất nguy hiểm đã bắt đầu!”
Có mị dân không?
Bên cạnh những câu nói đao to búa lớn, ông Trọng không quên cho dân ăn những chiếc bánh vẽ mơ hồ, không có dữ liệu và bằng chứng khoa học cụ thể, trong diễn văn của ông.
Ông đã vẽ ra điều gọi là “những dấu mốc phát triển quan trọng của đất nước ta trong những thập niên sắp tới:
– Đến năm 2025: Là nước đang phát triển có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp.

– Đến năm 2030: Là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao.

– Đến năm 2045: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao.
Ông Trọng cho biết trong số “các định hướng lớn bao quát những vấn đề phát triển quan trọng của đất nước trong giai đoạn 10 năm tới” , trong đó có vấn đề mới, đó là:
“Thực hành và phát huy rộng rãi dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ và vai trò chủ thể của nhân dân; củng cố, nâng cao niềm tin của nhân dân, tăng cường đồng thuận xã hội…”
Nhưng cái gọi là “dân chủ xã hội chủ nghĩa” là gì, có phải là thứ “dân chủ của đảng, do đảng và vì đảng” hay dân chủ giả tạo để lừa bịp dân?
Bằng chứng, thêm lần nữa ông Nguyễn Phú Trọng lại hô hoán thông điệp đã biết rồi khổ lắm nói mãi, đó là “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ”. Và, trong số những điều gọi là “mối quan hệ mới được bổ sung lần này” , theo ông Trọng, là “mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội.”
Nhưng tại sao đã “dân chủ”, nghĩa là dân phải làm chủ thì ai cho phép Đảng và Nhà nước được “tăng cường pháp chế” lên quyền làm chủ đất nước và bản thân của dân?
Tất nhiên thứ lý luận con vẹt này không phải của ông Trọng mà do Hội đồng Lý Luận Trung ương viết cho ông đọc. Hội đồng này, như truyền thống từ xưa đến nay, là cơ quan soạn Tài liệu và các Dự thảo văn kiện để trình ra trước mỗi Đại hội đảng. Kỳ này cũng không khác.
Hãy đọc thêm “những quan hệ” giáo điều, cực đoan và bảo thù của những cái đấu đất sét trong Hội đồng Lý luận Trung ương để thấy nó loạn cào cào như thế nào:
Ông Trọng nói: “Chúng ta cần tiếp tục nắm vững và xử lý tốt các quan hệ lớn: Giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa nhà nước, thị trường và xã hội; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường; giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế….

…Đó là những mối quan hệ lớn, phản ánh các quy luật mang tính biện chứng, những vấn đề lý luận cốt lõi về đường lối đổi mới của Đảng ta, cần tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện và phát triển phù hợp với thay đổi của thực tiễn; đòi hỏi chúng ta phải nhận thức đúng và đầy đủ, quán triệt sâu sắc và thực hiện thật tốt, có hiệu quả. Tuyệt đối không được cực đoan, phiến diện.”
Nhưng ông Trọng không ngừng tại đây mà ông còn hô tiếp:
“-Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.

-Hết sức coi trọng xây dựng Đảng về tư tưởng. Kiên định, vững vàng trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời không ngừng bổ sung, phát triển sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam.

-Thường xuyên đấu tranh, ngăn chặn âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động, đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

-Tập trung xây dựng Đảng về đạo đức, tích cực đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; ngăn chặn, đẩy lùi có hiệu quả tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ gắn với đẩy mạnh học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.

– Nghiêm trị mọi âm mưu, hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cản trở sự phát triển của đất nước.

– Bảo đảm công khai, minh bạch thông tin, quyền được thông tin và cơ hội tiếp cận thông tin của mọi tầng lớp nhân dân. Thực hiện đúng đắn, hiệu quả dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, nhất là dân chủ ở cơ sở. Chống các biểu hiện dân chủ cực đoan, dân chủ hình thức.”
Chống “dân chủ cực đoan, dân chủ hình thức” là điều chí lý, nhưng ông Nguyễn Phú Trọng hãy sờ lên gáy xem dân hay đảng đã cho dân ăn bánh vẽ về các quyền dự do, dân chủ, dù đã ghi trong Hiến pháp sửa đổi năm 2013?
Bằng chứng Điều 25 viết: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định.”
Nhưng dân không được ra báo, dù Luật Báo chí không cấm. Cũng không có bất cứ Luật nào cấm dân lập hội mà vẫn bị cấm, chưa cần nói đến lập đảng chính trị đối lập. Cũng không có luật cấm dân biểu tình mà khi biểu tỉnh, dù bất bạo động chống Trung Cộng, cũng bị đàn áp, bắt tù. Trong khi nhà nước CSVN lại trì hoãn ít nhất 4 lần, hay rút lại những Dự luật trình ra Quốc hội liên quan đến hai quyền lập hội và biểu tình.
Ngoài ra, đảng cũng đã tự tung tực tác cho mình ngôi vị lãnh đạo dân, dù chưa bao giờ có phép hay bỏ phiếu của dân. Đảng tự viết trong Điều 4 Hiến pháp:
“Đảng Cộng sản Việt Nam – Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của Nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, Nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.”
Như vậy, những gì ông Trọng nói trong Diễn văn mở đầu Đại hội đảng XIII, chẳng qua cũng chỉ là bản cũ sao lại. Ông tự khoe đó là “đường lối mới”, nhưng toàn chuyện cũ được nhắc lại. Tuyệt nhiên không có tư duy mới, không có những đột phá vươn lên của một đất nước chậm tiến, lạc hậu. Ngược lại toàn là hy vọng và kỳ vọng vào những hứa hẹn không có cơ sở khoa học vững vàng.
Những tăng trưởng mơ hồ tự vẽ từ 2025 đến 2045 với mức “thu nhập trung bình thấp; thu nhập trung bình cao ; thu thập cao” cho cả nước chẳng qua chỉ là bài toán do những cái đầu ảo tưởng trong Hội đồng Lý luận Trung ương chế ra, đặt trên nền tảng triển kinh tế cầu âu.
Do đó, sẽ không ngạc nhiên nếu Đảng XIII lại sản sinh ra đội ngũ lãnh đạo 4 người chủ chốt không có định hướng cho ngày mai. -/-
(01/021)


Vì tham nhũng quyền lực nên Nguyễn Phú Trọng đang vứt Điều lệ Đảng vào sọt rác!

– Ngày mai Đại hội 13 ĐCSVN sẽ bàn về phương án nhân sự, đặc biệt là Bộ chính trị, Ban bí thư và quan trọng nhất là “Tam-tứ trụ”. Nguyễn Phú Trọng đang tìm cách ép Trung ương đảng và Đại hội xếp cho mình thêm lần nữa vào “Trường hợp đặc biệt” để nắm chức Tổng bí thư thêm nhiệm kì thứ ba. Mặc dầu ông đã gần 77 tuổi và sức khỏe rất yếu. Nếu điều này diễn ra thì ông Trọng phá hủy ngay những điều lệ do chính ông đưa ra trước đây ghi rõ trong Điều lệ Đảng. Đó là không được làm Tổng bí thư ba nhiệm kì và không quá 65 tuổi khi tham gia Bộ chính trị.

Rất nhiều Ủy viên trung ương và Đại biểu Đại hội rất bất bình và chống thái độ tham nhũng quyền lực một cách trắng trợn của Nguyễn Phú Trọng. Vì lo sợ sự chống đối này, nên ông Trọng đang cho nhiều cán bộ vây cánh -nhất là trong Ban Tuyên giáo trung ương- làm cò mồi, kẻ tung người hứng ca tụng Nguyễn Phú Trọng không khác gì thánh sống! Miệng thì nói là Đại hội có quyền quyết định tất cả. Nhưng trong thực tế họ đang cố tình mở cuộc vận động dư luận ngay tại Đại hội để ép các Ủy viên Trung ương và Đại biểu Đại hội phải chấp nhận giải pháp để Nguyễn Phú Trọng chiếm ghế Tổng bí thư lần thứ ba!
Mặc dù mới vài ngày trước Nguyễn Phú Trọng đã ra lệnh cho Nguyễn Xuân Phúc phải kí quyết định coi phương án nhân sự các cấp cao nhất của đảng là “Tuyệt mật”. Nhưng nay thì họ đang công khai cổ động cho Nguyễn Phú Trọng. Sự kiện trắng trợn và rõ ràng nhất đã được phổ biến công khai ngay trên đài truyền hình VTC1 Trực tiếp phiên Khai mạc Đại hội XIII của Đảng ngày 26.1.2021. Trong Video vào thời gian 2:32 một số cán bộ Tuyên giáo đã tung hứng cho giải pháp đưa Nguyễn Phú Trọng làm Tổng bí thư nhiệm kì ba. Trong đó đáng kể nhất là TS Nhị Lê, nguyên Phó Tổng biên tập Tạp chí Cộng sản và là cánh tay mặt của Nguyễn Phú Trọng trong vận động tuyên truyền cho cá nhân ông Trọng. Trong những năm qua, mỗi khi Nguyễn Phú Trọng gặp cơn nguy biến thì Nhị Lê đã được cử ra “cứu chúa”. Như cuối năm 2015 khi phải đương đầu với đối thủ ngang ngửa Nguyễn Tấn Dũng tại Hội nghị Trung ương 13 (14.-22.12.2015), Nguyễn Phú Trọng đứng trước nguy cơ có thể không được xếp vào “Trường hợp đặc biệt” để nắm ghế Tổng bí thư lần nữa trong Đại hội 12 (1.2016), dù khi đó đã gần 72 tuổi. Nên ông Trọng đã cho Nhị Lê viết bài trên Tạp chí Cộng sản ra tuyên chiến “lạnh tanh máu cá” chống các đồng chí và đòi “tài không nệ tuổi”. 
Ngày 26.1.2021 trong Video nói trên của VTC1, Nhị Lê đã nói thẳng ý đồ của Nguyễn Phú Trọng, quyết bằng đủ mọi giá sẽ chiếm ghế Tổng bí thư lần thứ ba. Trong đó sẵn sàng đòi Đại hội 13 phải sửa lại Điều lệ đảng để Nguyễn Phú Trọng tiếp tục tham nhũng quyền lực, coi Trung ương đảng và Đại hội chỉ như cái hình nộm, bù nhìn. Dưới đây là trích lời của Nhị Lê:
“Điều lệ [ý nói Điều lệ ĐCSVN] là do chúng ta làm ra. Khi điều lệ không bao chứa hết được sự vận động của lịch sử thì chúng ta sửa điều lệ. Quyền này là cao nhất của Ban chấp hành Trung ương đảng. Cho nên vấn đề cùng với sự phát triển của thông lệ trên cơ sở của điều lệ chúng ta có trường hợp biệt lệ, trường hợp ngoại lệ, thậm chí trường hợp siêu biệt lệ để giải quyết những tình thế mà lịch sử yêu cầu… Không có một công việc gì dù khó khăn đến mấy chúng ta không vượt qua…”
Mong Quí vị và thân hữu theo dõi sát các diễn tiến Đại hội 13. Thân chúc tất cả nhiều sức khỏe và Năm Mới Tân Sửu mọi sự tốt lành.


Chương trình Văn Học Nghệ Thuật phỏng vấn Điệp Mỹ Linh

Điệp Mỹ Linh– Trước hết, tôi xin xác nhận: Quân lực V.N.C.H. không hề thua c.s.V.N. tại chiến trường mà chính phủ V.N.C.H. đã thua c.s.V.N. tại bàn hội nghị. Để minh chứng, tôi xin trích phần Điệp Mỹ Linh trả lời phỏng vấn do phóng viên Huy Tâm của Hệ Thống Truyền Thông Việt Nam Hải Ngoại thực hiện. Đoạn ấy như thế này: “…Người Lính V.N.C.H. đã chu toàn trách nhiệm và bổn phận trước lịch sử. Ai hoài nghi thì mời người đó xem lại hồ sơ những trận đánh “để đời” của người Lính V.N.C.H. trong các trận chiến đẩm máu tại An Lộc, Bình Long, Hạ Lào, Cổ Thành Quảng Trị, Pleime, Tống Lê Chân, Đồng Xoài, Tam Giác Sắt, Vũng Rô, v.v…Với kỹ thuật tác chiến thần tốc của Nhảy Dù, Biệt Động Quân, Thủy Quân Lục Chiến, Bộ Binh, v.v…Người Lính và Quân Lực V.N.C.H. chưa bao giờ thua cộng sản Bắc Việt tại chiến trường mà chính quyền miền Nam đã thua c.s.V.N. tại bàn hội nghị – vì sự tráo trở, gian manh, lật lộng của c.s.V.N!


*
Phượng Vi (Đài Phát Thanh Saigon Dallas – 1600AM) thực hiện
Phượng Vi.- Thưa quý thính giả, hôm nay Chương Trình Văn Học Nghệ Thuật mời nhà văn Điệp Mỹ Linh trình bày những câu chuyện rất thú vị về cuộc đời, qua những tác phẩm của bà, nhất là cuốn Hải Quân V.N.C.H. Ra Khơi, 1975. Đây là một tài liệu lịch sử quý giá và được biết bà đang chuyển ngữ sang tiếng Anh để thế hệ trẻ có thể đọc và hiểu được. 
Kính chào cô Điệp Mỹ Linh, rất vui được cô nhận lời nói chuyện hôm nay. Cô khỏe không. Houston mưa nắng ra sao?
ĐML.- Điệp Mỹ Linh xin trân trọng kính chào quý thính giả, mến chào cô Phượng Vi. Houston mấy hôm nay trời âm u, mưa nhè nhẹ. Hôm nay nắng, đẹp.
Phượng Vi.Thưa cô, cầm cuốn Hải Quân V.N.C.H. Ra Khơi, Phượng Vi cảm thấy ngưỡng mộ một phụ nữ tài năng như cô, đã bỏ công viết một cuốn sách quân đội rất kỹ lưỡng. Để hoàn thành cuốn tài liệu này cô đã mất bao nhiêu thời gian? Bắt đầu như thế nào để cô có cảm hứng viết được một tác phẩm đồ sộ và giá trị như thế?
ĐML.- Cảm ơn lời khen tặng của cô. Tôi bắt đầu viết cuốn tài liệu Hải Quân V.N.C.H. Ra Khơi, 1975 vào đầu năm 1976; xuất bản năm 1990.
Trong thời gian cuộc chiến Việt Nam ở vào giai đoạn quyết liệt, tôi muốn viết tường thuật về những trận chiến trong các vùng sông rạch; vì vậy, tôi thường tháp tùng các cuộc hành quân hỗn hợp trên sông của nhiều đơn vị tác chiến Hải Quân. Chính trong các cuộc hành quân hỗn hợp đó tôi mới thấy được tận mắt sự can cường, sự liều lĩnh đến độ phi thường cũng như sự hy sinh vô bờ của người Lính Việt Nam Cộng Hòa (V.N.C.H.). Cũng chính trong các cuộc hành quân trên sông rạch đã khơi dậy trong tim tôi tình yêu Quê Hương nồng nàn; vì tôi nhận ra vẻ đẹp thầm kín của Quê Mẹ đau thương ẩn hiện trên những dòng sông đầy mìn bẫy do cộng sản Việt Nam (c.s.V.N.) cài đặt.
Từ tình yêu Quê Hương, từ lòng cảm phục của tôi đối với người lính V.N.C.H. và cũng từ biến cố 30 tháng Tư, 1975, nhìn cả Hạm Đội Hải Quân V.N.C.H. lầm lũi tiến, cố đưa đồng bào và quân bạn thoát khỏi gông cùm của c.s.V.N., tôi dành cho quân chủng Hải Quân V.N.C.H. tất cả niềm thương mến. Thế là những truyện ngắn, tùy bút, hồi ký của tôi thường có liên quan đến Hải Quân.
Nhờ đọc những bút ký và truyện ngắn của tôi, cựu Trung Tướng Vĩnh Lộc –nguyên Tổng Tham Mưu Trưởng cuối cùng của Quân Lực V.N.C.H. – khuyên tôi nên viết về cuộc di tản của Hải Quân V.N.C.H.
Nhận thấy viết về cuộc di tản của Hải Quân năm 1975 là một dự án quá lớn lao, tôi từ chối. Sau đó, bất cứ khi nào gặp tôi, cựu Trung Tướng Vĩnh Lộc cũng nhắc nhở, khuyến khích tôi viết về cuộc di tản. Tôi chỉ cười. 
Hôm dự tiệc tại nhà tôi, Tướng Vĩnh Lộc ở lại sau cùng để kể cho ông Minh – Bố của các con tôi – và tôi nghe về trận chiến hào hùng, đẩm máu tại cứ điểm chiến lượt Pleime, khi Tướng Vĩnh Lộc là Tư Lệnh Quân Đoàn II.
Tôi bị xúc động mạnh về sự chiến đấu hào hùng của quân nhân V.N.C.H. đồn trú tại Pleime. Thế là truyện ngắn Người Trở Lại Pleime ra đời và tôi nhận lời của Tướng Vĩnh Lộc để viết về cuộc di tản mang tích cách lịch sử của Hải Quân V.N.C.H.
Tôi khởi viết cuốn Hải Quân V.N.C.H. Ra Khơi, 1975 bằng những cuộc phỏng vấn trực tiếp hoặc qua điện thoại có thu băng. Nhiều vị không đồng ý trả lời qua điện thoại, ông Minh và tôi – vào cuối tuần – phải “bay” đến thành phố các vị đó cư ngụ để tôi lo việc phỏng vấn và ông Minh cũng có niềm vui riêng với bạn hữu. 
Tất cả sĩ quan cao cấp, các vị Hạm Trưởng và hầu hết Chỉ Huy Trưởng các đơn vị tác chiến Hải Quân đều hết lòng giúp tôi. Thời điểm đó computer chưa được thông dụng. Tôi phải nghe băng, viết ra, chọn lựa, đúc kết, tổng hợp theo thứ tự đơn vị, thời gian và vùng hành quân. Tôi cũng phải mượn tài liệu từ thư viện Hoa kỳ để tìm hiểu về những chi tiết không thuộc phạm vi Hải Quân V.N.C.H.
Phượng Vi.Khi liên lạc với cô, được biết phu quân của cô là Hải Quân trung tá Hồ Quang Minh, ông không thích cô đàn, không thích cô viết, như vậy trong khi cô viết rất nhiều, phỏng vấn nhiều nhân vật, thì cô phải làm sao để hoàn thành nhiều mục như thế? Nhất là trong những trận chiến cuối cùng, một mất, một còn với Việt cộng, như cuộc rút quân tại các vùng duyên hải: Qui Nhơn, Nha Trang, Thuận An, v.v…khi viết những tài liệu đó, cô phải làm sao?
ĐML.- Như phần trên tôi đã trình bày: Tôi không có mặt trong các cuộc rút quân từ vùng I Duyên Hải. Những chi tiết chính xác trong các cuộc rút quân bằng đường thủy dọc theo lãnh hải của V.N.C.H. là do sự tường thuật rất trung thực của tất cả Hạm Trưởng đã tham dự các cuộc chuyển quân và dân từ Vùng I, vùng II Duyên Hải về Phú Quốc và Saigon. Tôi chỉ là người ghi lại, sắp xếp theo thứ tự thời gian và không gian.
Về câu hỏi có tính cách riêng tư, tôi xin xác định: Thời mới lớn, tôi không có ước vọng cầm bút. Từ bé, tôi rất say mê và có năng khiếu về âm nhạc; nhưng Ba Má tôi nhất quyết không cho tôi trở thành nghệ sĩ trình diễn – dù nhạc sĩ Minh Kỳ và nhạc sĩ Canh Thân đã nhiều lần khuyến khích Ba tôi. Tôi từng đàn Accordéon và hát trong ban ca nhạc Bình Minh, đài phát thanh Nha Trang, từ giữa thập niên 50 đến đầu thập niên 60; dùng tên thật, Thanh Điệp.
Không ngờ, sau đám cưới, ông Minh mới tỏ ý không muốn tôi chơi đàn hoặc tiếp tục đường học vấn – thời điểm đó tôi đang học tại trường đại học Luật Khoa Saigon – vì ông Minh chỉ muốn tôi dành thì giờ cho chồng con.
Thấy tôi buồn vì không chơi đàn nữa, Ba tôi – bút hiệu Điệp Linh – dạy tôi viết văn. Tôi lại không ngờ ông Minh cũng không muốn tôi viết văn; thế là tôi phải dùng vài bút hiệu khác nhau như Nguyễn Thị Kiều Lam, Thủy Điện, Điệp Mỹ Linh. 
Tôi đàn, ông Minh có thể biết, vì phát ra âm thanh; nhưng tôi viết, ông Minh khó biết. Những lần tháp tùng các cuộc hành quân hỗn hợp, trong khi ông Minh đứng gần mũi chiếc Command để trực tiếp chỉ huy, tôi ngồi bên trong, quan sát chiến trận và ghi chép. Khi ông Minh đi họp hành quân, tôi viết, cho vào phong bì, ghi địa chỉ tòa báo, gửi tiền, nhờ mấy anh hỏa đầu vụ – lúc đi chợ – ghé bưu điện, mua tem, gửi giùm tôi. Đó là lý do trước tháng Tư năm 1975 tôi không thể viết nhiều.
Sau khi tị nạn tại Hoa Kỳ tôi mới nhận ra vị thế của người phụ nữ không phải chỉ là cái bếp, ông chồng và đàn con. Thế là tôi “tuyên chiến” với ông Minh! Ông Minh chỉ im lặng. Sau đó, khi nào ông ấy vui, ông ấy để yên cho tôi viết; khi nào ông ấy không vui, tôi ra nhà lan hoặc garage để viết. Đó là lý do tại sao suốt mấy mươi năm qua, cuốn tài liệu Hải Quân V.N.C.H. Ra Khơi, 1975 vẫn chưa được dịch ra ngoại ngữ; vì ông Minh bảo khi thực hiện cuốn tài liệu đó, chỉ tiền máy bay để tôi đi phỏng vấn cũng nhiều rồi. Gần đây tôi mới tìm được người để chuyển ngữ cuốn tài liệu Hải Quân V.N.C.H. Ra Khơi, 1975, từ tiếng Việt sang tiếng Anh.
Phượng Vi.Bây giờ Phượng Vi xin được trích đọc đoạn Hải Vận Hạm Hương Giang, HQ 404, Đón Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Quân Đoàn I, trong phần Cuộc Rút Quân Tại Đà Nẵng, thuộc chương V của phần Những Biến Chuyển Quân Sự và Các Cuộc Rút Quân để quý thính giả hiểu được phần nào tình cảnh bi đát trong các cuộc rút quân. 
“…Khuya 29 tháng 3, khoảng 12 giờ 30, Hạm Trưởng HQ 404 – Hải Quân Trung Tá Nguyễn Đại Nhơn – nhận được mật lệnh từ Bộ Tư Lệnh Hải Quân: “Chỉ thị HQ 404 đúng 04 giờ 30 sáng 30 tháng 03 năm 1975, vào cách bờ 05 hải lý để đón Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Quân Đoàn I!” 

30 tháng 3, đúng 4 giờ sáng, Trung Tá Nhơn báo cáo đã đến điểm hẹn. Bộ Tư Lệnh Hải Quân chỉ thị HQ 404 thả trôi lềnh bềnh, chờ lệnh trực tiếp từ Tổng Tham Mưu. 

8 giờ sáng, không thấy lệnh mới, Trung Tá Nhơn liên lạc Bộ Tư Lệnh Hải Quân xin chỉ thị; được trả lời: “Cứ lềnh bềnh ở đó, chờ lệnh.” 

10 giờ sáng, Hạm Trưởng HQ 404 sốt ruột, dùng máy truyền tin PRC25 liên lạc bằng bạch văn với Tư Lệnh Hạm Đội – Hải Quân Đại Tá Nguyễn Xuân Sơn – được trả lời: “Tôi không có thẩm quyền gì về chiến hạm của anh cả. Anh hãy chờ lệnh từ Tổng Tham Mưu. Tuy nhiên, cho anh hay là Trung Tướng Trưởng đang ở trên bờ, trước mặt anh đó.” 

Khoảng 2 giờ trưa cùng ngày, từ Bộ Chỉ Huy Thủy Quân Lục Chiến ở căn cứ Non Nước, nhân viên canh phòng thấy HQ 404 vào, liền trình lên thượng cấp. 

Biết chiến hạm vào đón, Thủy Quân Lục Chiến tận dụng phao, poncho và tất cả vật nổi để làm bè. Trung Tướng Ngô Quang Trưởng cùng bơi ra chiến hạm HQ 404 với những người lính đã từng sống, chết với Ông qua nhiều chặng đường binh nghiệp gay go! 

Trên HQ 404, cũng như tại căn cứ Thủy Quân Lục Chiến ở Non Nước, Bộ Tham Mưu Thủy Quân Lục Chiến thảo công điện theo chỉ thị của Tướng Trưởng để gửi về Saigon. 

5 giờ chiều, Bộ Tư Lệnh Hải Quân chỉ thị HQ 5 – Soái Hạm – đón Tướng Trưởng từ HQ 404 sang; vì HQ 5 đầy đủ tiện nghi. 

Tuy cuộc rút quân thê thảm trong vịnh Đà Nẵng chưa chấm dứt, nhưng HQ 404 và HQ 5 vẫn chuẩn bị nghi lễ đúng truyền thống Hải Quân để đưa và đón Tư Lệnh Quân Đoàn I – Trung Tướng Ngô Quang Trưởng. 

Hạm Phó HQ 5 – Hải Quân Thiếu Tá Hồ Văn Kỳ Tường – mang sang HQ 404 mật điện của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Thiếu Tá Tường được Hạm Phó HQ 404 hướng dẫn gặp Tướng Trưởng. Tướng Trưởng rời giường ngủ của đoàn viên, cầm mật điện, xé ra, đọc. Đọc xong, Tướng Trưởng ra lệnh cho Thiếu Tá Tường: “Báo cáo với Saigon là tôi xin được ở đây với anh em Thủy Quân Lục Chiến chứ không đi đâu cả.” 

Yêu cầu của Trung Tướng Ngô Quang Trưởng được Tổng Thống Thiệu chấp thuận.”

Thưa cô, ngòi bút của cô đã cho thấy một cảnh chiến tranh rất khốc liệt một tháng trước khi kết thúc. Khi chứng kiến những cuộc hành quân, những trận đánh rất bi hùng, lúc ấy và cho tới khi ghi lại, cô có cảm giác như thế nào đối với quân đội V.N.C.H. nói chung và quân chủng Hải Quân nói riêng?
ĐML: Nhờ thấy tận mắt sự chiến đấu can cường và bền bỉ cũng như sự hy sinh vô tận của người Lính V.N.C.H., lúc nào tôi và ngòi bút của tôi cũng dành cho người Lính V.N.C.H. tất cả sự trân quý. Riêng về Hải Quân V.N.C.H., tôi nhận thấy có hai sự kiện rất đặc biệt trong lịch sử cận đại mà các quân, binh chủng khác không có cơ hội để thực hiện – đó là trận Hải Chiến chống Trung cộng tại Hoàng Sa và cuộc di tản rất bi hùng, vào cuối tháng Tư năm 1975.
Nhờ cuộc di tản vĩ đại do Hải Quân V.N.C.H. thực hiện vào cuối tháng Tư, 1975, đài BBC đưa tin, cho nên đồng bào trong nước mới biết người tị nạn được thế giới Tự Do đón nhận; thế là vạn vạn người liều chết, trốn khỏi sự trả thù dã man của c.s.V.N. để tìm Tự Do.
Cũng nhờ cuộc di tản bi hùng của Hải Quân V.N.C.H. và những cuộc vượt biển, vượt biên của người Việt liều chết, trốn chạy khỏi sự cai trị sắt máu của c.s.V.N. mà ngày nay chúng ta có được thế hệ di dân thứ hai với những thành quả rất tuyệt vời, trên mọi lãnh vực – kể cả chính trị và quân sự.
Phượng Vi.- Khi các chiến hạm rời Việt Nam, hướng về Subic Bay, lúc ấy cô biết miền Nam đã thất thủ phải không? Quân nhân Hải Quân có tiên liệu cuộc chiến đã đến hồi chấm dứt hay không? Trên chuyến hải hành cuối cùng, cảm giác của cô ra sao?
Riêng cá nhân tôi, tôi xin trích một đoạn ngắn trong bài Nỗi Niềm Của Người Vợ Lính của Điệp Mỹ Linh để nói lên tình cảm của tôi. Đoạn ấy như thế này: “Năm 1973, sau khi ký hiệp định ngưng chiến tại Paris, Mỹ rút quân và cắt đứt mọi viện trợ – gồm có vũ khí, quân dụng, quân trang và tiếp liệu – cho V.N.C.H. trong khi c.s.V.N. vẫn âm thầm nhận viện trợ quân sự từ Trung cộng và Nga.
Ông Bà mình thường bảo: ‘Hai thằng đánh một, không chột cũng què’. Thời chiến tranh Việt Nam, V.N.C.H. bị đến ba “thằng” – c.s.V.N., Trung cộng và Nga – hùa nhau đánh thì một mình V.N.C.H. chống nổi hay không?” Đó chỉ là sự lo âu của tôi chứ tôi cũng vẫn không tin rằng c.s.V.N. sẽ chiếm được miền Nam.
Trên chuyến hải hành vô định, năm 1975, tôi rất buồn và đau khổ; vì em tôi, bạn hữu của tôi đã chiến đấu đến cùng, nhưng phải kẹt lại để nhận sự trả thù tàn độc của c.s.V.N.; và cũng vì em ruột của ông Minh đã tử trận tại Bình Long rồi hình ảnh người Lính V.N.C.H. bê bết máu mà tôi đã thấy tận mắt tại U Minh, Chương Thiện cứ chờn vờn trong tâm tưởng tôi!
Phượng Vi.- Sau đây, Phượng xin đọc một đoạn ngắn trong phần Hướng Về Subic Bay để thính giả có thể thấu hiểu được niềm đau khổ và nỗi thống hận của những người đã bị c.s.V.N. cướp đi phần đất mà chính c.s.V.N. đã ký Hiệp Ước chia đôi nước Việt, năm 1954: Miền Nam thuộc Quốc Gia; miền Bắc thuộc cộng sản.

Đoạn ấy như thế này: “… Tối 29 tháng 4, ông Richard Lee Armitage rời Saigon bằng trực thăng và đáp xuống chiến hạm Blue Ridge thuộc Đệ Thất Hạm Đội Hoa Kỳ.
Tại chiến hạm Blue Ridge, ông Armitage yêu cầu được gặp Đề Đốc Donald Whitmire, Tư Lệnh Đệ Thất Hạm Đội Hoa Kỳ tại Thái Bình Dương.

Khi gặp Đề Đốc Whitmire, ông Armitage thỉnh cầu Đề Đốc Whitmire liên lạc với Ngũ Giác Đài để được Ngũ Giác Đài xác nhận vai trò của Ông; đồng thời ông Armitage cũng nhờ Đề Đốc Whitmire xin Ngũ Giác Đài cho phép trợ giúp Hải Quân V.N.C.H.
Sau khi được Ngũ Giác Đài cho phép, ông Armitage trở lại Côn Sơn với hai chiến hạm Hoa Kỳ, gặp Hạm Đội Hải Quân V.N.C.H.. Tại Côn Sơn, ông Armitage chuyển sang Soái Hạm, HQ 3, và hướng dẫn Hạm Đội Việt Nam đến Phi Luật Tân.
Dù Quân Lực đã tan rã, dù Quê Hương đã rơi vào tay kẻ thù, dù chưa ai biết mình sẽ đi về đâu và dù rất nhiều quân nhân Hải Quân không đem gia đình theo được, v. v…truyền thống Hải Quân vẫn được thể hiện cao độ trong thời điểm bi hùng này! Nếu không có khối lượng đồng bào và quân bạn trên những chiến hạm; nếu không có những quân nhân Hải Quân, ban ngày thi hành khẩu lệnh của cấp trên, ban đêm tựa boong tàu, âm thầm lau nước mắt, nhớ đứa con thơ, thương người vợ trẻ còn kẹt lại quê nhà thì không ai có thể biết được đây là Hạm Đội của một Quân Lực vừa được lệnh buông súng, hàng giặc!

Trong quân sử chưa có cuộc rút quân của bất cứ một đại đơn vị nào mà quân dụng được bảo toàn tối đa, kỹ luật được tôn trọng tuyệt đối và tình người được dâng cao chất ngất như Chuyến Ra Khơi Cuối Cùng của Hải Quân V.N.C.H!

Lúc cử hành lễ hạ Quốc Kỳ V.N.C.H., tất cả quân nhân và đồng bào hát Quốc Ca trong tiếng khóc nghẹn ngào. Tiếng hát vang xa trong vùng biển lạ như nỗi đau đang len lỏi trong từng ngõ ngách tâm hồn! Chiều tím thẫm trên đại dương mênh mông như báo trước những bất trắc không lường được trong cuộc đời của những kẻ mất Quê Hương!
Thưa cô, khi đọc đoạn này Phượng Vi cảm thấy rất ngậm ngùi! Dầu đã thua, nhưng, như đô đốc Hồ Văn Kỳ Thoại đã nói “Can Trường Trong Chiến Bại” của trận Hoàng Sa. Để chấm dứt phần nói chuyện hôm nay và tưởng niệm Hoàng Sa ngày 19 tháng 01 vẫn còn dư âm, mặc dù năm nay covid-19 nên khắp nơi không có buổi lễ lớn tưởng niệm các chiến sĩ Hoàng sa. Xin cô cho biết trận chiến oai hùng này, mặc dù Trung cộng đã cưỡng chiếm Hoàng Sa.
ĐML.- Trước hết, tôi xin xác nhận: Quân lực V.N.C.H. không hề thua c.s.V.N. tại chiến trường mà chính phủ V.N.C.H. đã thua c.s.V.N. tại bàn hội nghị.
Để minh chứng, tôi xin trích phần Điệp Mỹ Linh trả lời phỏng vấn do phóng viên Huy Tâm của Hệ Thống Truyền Thông Việt Nam Hải Ngoại thực hiện. Đoạn ấy như thế này: “…Người Lính V.N.C.H. đã chu toàn trách nhiệm và bổn phận trước lịch sử. Ai hoài nghi thì mời người đó xem lại hồ sơ những trận đánh “để đời” của người Lính V.N.C.H. trong các trận chiến đẩm máu tại An Lộc, Bình Long, Hạ Lào, Cổ Thành Quảng Trị, Pleime, Tống Lê Chân, Đồng Xoài, Tam Giác Sắt, Vũng Rô, v.v…Với kỹ thuật tác chiến thần tốc của Nhảy Dù, Biệt Động Quân, Thủy Quân Lục Chiến, Bộ Binh, v.v…Người Lính và Quân Lực V.N.C.H. chưa bao giờ thua cộng sản Bắc Việt tại chiến trường mà chính quyền miền Nam đã thua c.s.V.N. tại bàn hội nghị – vì sự tráo trở, gian manh, lật lộng của c.s.V.N!
Tháng Ba 1975, lệnh rút quân khỏi Cao Nguyên, rồi lệnh rút quân khỏi Vùng I, Vùng II. Sáng 30-04-1975, ông Dương Văn Minh đầu hàng và ra lệnh người Lính V.N.C.H. buông súng! 
Vào thời điểm nghiệt ngã như vậy, người Lính V.N.C.H. làm được gì khi vũ khí và đạn dược không được tiếp tế mà lệnh đầu hàng thì đến từ vị chỉ huy tối cao, Tổng Tư Lệnh Dương Văn Minh? …”
Đề cập đến trận Hải Chiến Hoàng Sa, tôi xin trích một đoạn ngắn từ bài Góp Ý Với Tướng cộng sản Lê Mã Lương của Điệp Mỹ Linh. Đoạn ấy như thế này: “…Năm 1973 và 1974 ,nếu quân Bắc Việt không lợi dụng thời cơ để tạo nên các trận chiến khốc liệt tại miền Nam Việt Nam thì lực lượng Hạm Đội của Hải Quân V.N.C.H. không phải bị phân tán mỏng để chuyển đạn ra vùng này, chuyển quân đến vùng kia, chuyển quân dụng đến vùng nọ, tuần tiễu dọc bờ biển, tuần tiễu xa bờ, v.v… thì Hạm Đội Hải Quân V.N.C.H. sẽ huy động các chiến hạm có khả năng tác chiến cao để đưa ra Hoàng Sa chứ Hạm Đội Hải Quân V.N.C.H. sẽ không bao giờ đưa chiến hạm đang đại kỳ hoặc tiểu kỳ (sửa chữa/tu bổ) – như Hộ Tống Hạm Nhật Tảo HQ 10 – ra Hoàng Sa!
Chi tiết này cho thấy, chính nhà cầm quyền c.s.V.N. và bộ đội cụ Hồ là những kẻ đã gián tiếp tiếp tay với Trung cộng để Trung cộng cưỡng chiếm Hoàng Sa của miền Nam Việt Nam.
Phương Vi. Thời lượng của cuộc phỏng vấn đến đây đã đủ. Cảm ơn cô.
ĐML.– Điệp Mỹ Linh xin trân trọng cảm ơn quý thính giả đã lắng nghe. Điệp Mỹ Linh cũng xin cảm ơn Ban Giám Đốc đài phát thanh Saigon Dallas, cảm ơn cô Phượng Vi đã dành cho Điệp Mỹ Linh cuộc phỏng vấn này. Kính chào.
Jan/27/2021
Phương Vi


Mật Ước Thành Đô

– Tôi không thân thiết hay gần gũi gì lắm với nhà văn Mai Thảo, và ngược lại. Tuy thế, suốt những năm dài của thập niên 1980, mỗi lần đến Silicon Valley là ông nhất định phải tìm tôi cho bằng được mới yên.

Lý do – giản dị – chỉ vì tôi vợ con không có, mèo chó cũng không nên có thể ngồi “hầu” rượu cùng ông từ sáng đến chiều, và (đôi khi) từ khuya cho tới sáng luôn!
Mai Thảo sống độc thân cho đến chết. Thiệt là phước đức. Tôi thì bất hạnh hơn nên rồi cũng vướng vào cái vòng thê tróc tử phọc, và phải hùng hục lao vào chuyện áo cơm để nuôi vợ dại con thơ, như vô số những người đàn ông (không may) khác.
Nếp sống của một kẻ vợ con đùm đề khiến tôi mỗi lúc một thêm xa Mai Thảo. Mãi cho đến đến lúc cuối đời (có hôm) tình cờ đọc được những câu thơ ông, viết trước lúc lìa trần, tôi mới cảm thấy “gần gũi” với cố nhân hơn trước: 
“Thế giới có triệu điều không hiểu
Càng hiểu không ra lúc cuối đời”
“Cuối đời” chính là lúc này đây! Tuy đã sắp gần đất xa trời rồi nhưng tôi vẫn không hiểu sao người ta có thể bán một đôi giầy cũ, với giá năm trăm sáu chục ngàn Mỹ Kim – theo như tin của NBC News (Michael Jordan sneakers sell for $560,000 at Sotheby’s auction) đọc được vào ngày 18 tháng 5 năm 2000! 
Tiền chớ bộ giấy, sao cà?
Mà đâu phải chỉ có bấy nhiêu thôi. Số tiền huê hồng hậu hĩ mà Michael Jordan nhận được nhờ quảng cáo cũng là vấn đề khiến cho thiên hạ phải bận lòng:
“Một tổ chức tương tự ở San Francisco, Global Exchange, đã ấn hành một báo cáo vào 9/1998 với tựa đề ‘Lương và chi phí sinh sống của công nhân Nike ở Indonesia’. Báo cáo này cho biết lương trung bình của một công nhân Nike ở Indonesia chỉ là 0,8 đôla mỗi ngày và yêu cầu công ty này nên nâng mức lương đó lên gấp đôi. Nếu thực hiện việc này, chi phí của Nike sẽ tăng thêm 20 triệu đôla, tương đương với số tiền hàng năm mà công ty trả cho Michael Jordan để làm đại sứ cho thương hiệu của họ.” (Những Thăng Trầm Của Thương Hiệu Nike – trích từ “Bí Quyết Thành Công Của 100 Thương Hiệu Hàng Đầu Thế Giới” do Công ty First News phát hành).
Một đôi giầy cũ mà giá hơn nửa triệu Mỹ Kim tưởng đã khó hiểu lắm rồi nhưng đời lại còn không ít chuyện chuyện khó hiểu hơn nhiều:
– The Guardian: Woman Faces Prison Charges For Not Saving Portrait Of Kim Jong-iL In Fire Outbreak (Phụ Nữ Bị Tù Vì Không Cứu Bức Hìnhg Của Kim Chính Nhật Khi Nhà Cháy)
– The Daily Telegraph: Girl Drowns Saving Kim Portrait (Nữ sinh Triều Tiên chết đuối vì cứu ảnh của Kim Lãnh Tụ)
Hóa ra, ở Bắc Hàn, chân dung lãnh tụ lại giá mắc hơn cả cuộc đời và sinh mạng của người dân ở xứ sở này nhiều lắm. Thế mới biết qúi cái nước CHXHCNVN, một nơi… dễ thở hơn thấy rõ!
Dù lụt lội hằng năm, và chết chóc là chuyện thường ngày vẫn xẩy ra ở huyện nhưng chưa có một đứa bé người Việt nào chết đuối vì mải lo “vớt” hình lãnh tụ cả. Cũng chưa có người Việt Nam nào phải vào tù vì quên “chạy” hình của Bác khi nhà bốc cháy.
Mà hình ảnh của Hồ Chí Minh thì thiếu chi ở xứ sở này. Nó hiển hiện khắp hang cùng ngõ hẻm ở miền xuôi, cũng như mạn ngược, và được phát không (cùng cờ đỏ sao vàng) tại tất cả mọi nơi: 
Chỉ có điều đáng tiếc là người nhận – ngó bộ – không vui vẻ mấy, và dư luận thì (xem chừng) có vẻ rất bất bình:
Nguyễn Danh Huế: “Tặng cho dân thì toàn tặng ảnh Bác Hồ với cả cờ tổ quốc. Tặng nhau thì các anh toàn quần áo vest Ý, cặp da và bút parker. Các anh khôn thế mà sao nước vẫn nghèo vậy.
Yên Vũ: “Đồ đểu!”
Phung Tran: “Mẹ VN anh hùng cần ăn hơn cần hình!”
Phan Anh: “Sao không tặng các mẹ cá gỗ để các mẹ ngắm ăn cơm với mắm?”
Trương Vĩnh Phúc: “Kiên định lập trường xem pháo hoa, ngắm ảnh quên đói!”
Trương Duy Nhất: “Không biết tự bao giờ, người ta nghĩ ra được những món quà khốn nạn đến thế.”
Hình ảnh của bác Hồ bị rẻ rúng, đã đành; NGƯỜI còn bị đám đông quần chúng chế riễu và bêu riếu bằng vô số hò/vè vô cùng khiếm nhã:
– Ăn phân nổi tiếng cá Vồ/Gian-manh nổi tiếng là Hồ Chí Minh
– Chiều chiều trên bến Ninh Kiều/ Dưới chân tượng bác đĩ nhiều hơn dân
– Ông Hồ, ông Duẫn, ông Chinh/ Vì ba ông ấy, dân mình lầm-than
– Đả đảo Thiệu, Kỳ cái gì cũng có/ Hoan hô Hồ Chí Minh cái đinh cũng phải xếp hàng
Ấy thế nhưng chả nghe ai bị bắt giữ hay tù đầy gì ráo. So với Bắc Hàn thì Việt Nam, rõ ràng, tự do và hạnh phúc hơn thấy rõ. Ít nhất thì dân Việt cũng còn được chửi lai ra, và chửi dài dài. Xứ sở này hiện nay chỉ có một cái taboo duy nhất về “cái khoản độc lập” thôi. Đây là điều tuyệt đối cấm kỵ nên hễ ai đụng tới là đi tù như bỡn.
Năm 2008, hàng chục nhân vật (Nguyễn Xuân Nghĩa, Nguyễn Mạnh Sơn, Nguyễn Văn Túc, Nguyễn Hữu Tính, Nguyễn Kim Nhàn, Ngô Quỳnh, Phạm Văn Trội, Vũ Hùng) đã vào tù vì họ bầy tỏ sự quan tâm đến việc bảo toàn lãnh thổ và lãnh hải. 
Năm 2020 thêm ba nhân vật nữa (Phạm Chí Dũng, Trần Đức Thạch, Nguyễn Tường Thụy) tiếp tục bị giam cầm cũng chỉ vì họ đều đã “yêu cầu Trung Quốc rút khỏi biển Đông.” Nhân vật mới nhất vướng vào vòng lao lý là bà Đinh Thị Thu Thủy, cũng cùng một nguyên do, theo tường thuật của thông tín viên Mỹ Hằng (BBC) vào hôm 20 tháng 1 năm 2021:
Thu Thủy bị kết án những tội danh trên chỉ vì đã giơ cao tấm biểu ngữ Vietnam is not for rent or for sale to by China! Bà từ chối bán nước hay mang quê hương xứ sở cho thuê nên phải đi tù.
Tại sao những người lãnh đạo hiện hành lại “nhậy cảm” với vấn đề độc lập và chủ quyền quốc gia đến thế? Họ ở thế qùi chăng? 
Bao giờ mà Hội Nghị Thành Đô vẫn còn được coi là “mật ước” giữa hai nhà nước Việt – Trung thì e sẽ không thể có lời giải đáp cho những câu hỏi thượng dẫn. Thế giới có triệu điều không hiểu/ Càng hiểu không ra lúc cuối đời!